Thứ Năm 27 Tháng Bảy 2017 - 06:55:42 CH
Ảnh hưởng của tục thờ Phra Phrom và Nang Kwak ở Nam bộ trong bối cảnh giao lưu khu vực
Tóm tắt
Mối quan hệ giao lưu giữa Việt Nam với Thái Lan trong bối cảnh khu vực hóa ngày càng gia tăng đã dẫn đến một số hình thức thờ cúng của người Thái Lan, tiêu biểu là tượng thần Phra Phrom (Brahma) và Nang Kwak đã xuất hiện trong các ngôi chùa Khmer Nam Bộ và hình thức thờ cúng của một số người Việt, người Hoa ở miền Nam Việt Nam. Bài viết phân tích chức năng, ý nghĩa của việc thờ thần Phra Phrom và Nang Kwak, lý giải vì sao hiện tượng thờ cúng này lại hiện diện ở Việt Nam.

Tượng thần Maha Phra Phrom tại miếu Erawan, đường Pracharasong, Bangkok – Thái Lan.
Nguồn: www.amarinplaza.com
TS. Phan Anh Tú
Đã đăng: Nghiên cứu Tôn giáo số 07 (145), 2015, 07 -98
Abstract:
The Influence of the cult of Phra Phrom and Nang Wack
in the South of Vietnam in the context of regional exchanges
in the South of Vietnam in the context of regional exchanges
The context of exchanges between Vietnam and Thailand are raising which have led to the appearance of some cults of Thailand, typically the Phra Phrom (Brahma), Nang Kwak statues, in the Khmer Buddhsit temples in the South and they have become a cult of some Vietnamese, Vietnamese – Chinese in the South. This article analyzes the function, the signification of the cult of Phra Phrom and Nang Kwak; explains why this cults has presented in Vietnam.
Từ khóa: Phra Phrom, Nang Kwak, Supawadee, Erawan, Phạm Thiên, Bà Ngoắc, Niềng Bột, Niềng Boi, tín ngưỡng, thương mại, Khmer, Thái Lan, Việt Nam.
Dẫn nhập
Mặc dù Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada Buddhism) là tôn giáo chính ở Thái Lan nhưng trong đời sống tâm linh, người Thái luôn chịu sự chi phối bởi một hệ thống thần linh Bà La Môn giáo và những vị thần trong tôn giáo bản địa. Phra là tên gọi của những vị thần dạng này. Họ không phải là những hóa thân hay nhân vật tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca Mầu Ni (Sakyamuni) nhưng lại tác động lớn đến nghi thức thờ cúng của người Thái. Người Thái tin rằng hàng năm mỗi người Thái đều bị kiểm soát bởi những vị Phra nhất định, nên việc cầu cúng rất quan trọng trong nghi lễ vòng đời của họ. Trong số đó, Phra Phrom hay Maha Phra Phrom là một trong ba vị thần chủ Bà La Môn giáo được người Thái xem là đại diện cho Đức Phật thuyết pháp cho chư thiên và thế gian. Tượng thần Phra Phrom trong chùa Thái Lan luôn được thể hiện bên cạnh Đức Phật, đôi khi Phra Phrom còn được thể hiện trong vai trò thần bảo vệ hướng Nam của ngôi chùa Phật giáo Theravada.
Ngoài thần Phra Phrom, người Thái còn thờ Nang Kwack, nữ thần Tài lộc mang lại may mắn cho việc buôn bán ở các cửa hiệu hay trung tâm thương mại. Bà được thể hiện trong hình dáng của một mỹ nữ, ngồi bó gối trên bệ hoa sen hoặc trên một chiếc ngai. Đôi bàn chân đuổi thẳng ra phía sau, lòng bàn chân để ngửa. Đây cũng là tư thế ngồi phổ biến của phụ nữ Thái Lan khi tham gia các nghi lễ truyền thống trong chùa. Đầu Nang Kwak đội vương miện hình lược cài trang trí hoa văn cầu kỳ, tóc xõa sau lưng, y phục phần trên chỉ che trên ngực, bên dưới là chiếc sarong dày nặng trang trí nhiều hoa văn. Tư thế tay phổ biến là: tay phải giơ cao ngang đầu, lòng bàn tay khum lại, trong tư thế này gọi là “ngoắc” hay mời gọi khách hàng và cũng là tư thế quan trọng nhất khiến cho người Thái gọi nữ thần là Nang Kwak (Nàng Ngoắc). Tay trái có nhiều tư thế khác nhau như thả lỏng xuống phần bệ tượng, đặt trên đùi trái, cầm bình nước hoặc túi vàng đặt trên đùi trái. Bệ tượng được trang trí xung quanh bằng những thỏi vàng và đồng tiền Âm - Dương kiểu Trung Hoa. Mặc dù màu đỏ là màu chủ đạo nhưng tượng Nang Kwak cũng được sơn bằng nhiều màu khác nhau như: màu vàng, màu bạc và màu xanh xen đỏ.
Thờ Phra Phrom và Nang Kwak ở Thái Lan
Thần Phra Rhrom
Phra Phrum hay Phra Phrom (พระพรหม) là cách gọi của các dân tộc Thái, Lào và Khmer nhằm chỉ thần Brahma[1]. Sự tích lễ mừng năm mới, Chom Chnam Thmay của người Khmer Nam Bộ hay Maha Songkran[2] của người Thái đều có cốt chuyện giống nhau liên quan đến việc thần Maha Phra Phrum tự cắt đầu mình vì thua hoàng tử Thôn Ma Ban trong một cuộc đấu trí bằng ba câu hỏi. Chiếc đầu của thần Phra Phrom được bảy người con gái cất giữ cẩn thận trong một tòa tháp xây trên ngọn núi Phra Sumen và hàng năm vào thời điểm giao thừa bảy người con gái mỗi cô đại diện cho một năm sẽ tổ chức đại lễ rước chiếc đầu bốn mặt của cha mình đi ba vòng quanh ngọn núi này. Cùng tham gia với họ còn có một vị thiên tôn, con trai của Đế Thích Thiên (Phra In) cưỡi linh thú dẫn đầu 33 vạn chư thiên hộ vệ bảy người con gái hoàn thành đại lễ. Đây cũng là nguồn gốc của lễ đón chư thiên trong giờ giao thừa ở Thái Lan và cộng đồng Khmer ở Nam Bộ đánh dấu thời khắc quan trọng khi mặt trời đi vào cung Hoàng đạo kết thúc chu kỳ năm cũ để bước sang năm mới theo thiên văn và lịch pháp của Ấn Độ.
Tục thờ thần Phra Phrom hiện nay rất phổ biến ở Thái Lan nhưng việc thờ thần bên ngoài các ngôi chùa Phật giáo chỉ xuất hiện trong khoảng cuối thập niên 1950 từ việc xây dựng khách sạn Grand Hyatt Arawan gặp nhiều sự cố huyền bí mà khoa học không lý giải nổi. Nhà đầu tư tham vấn các tu sĩ Bà La Môn giáo và được khuyên phải lập một ngôi miếu thờ thần Phra Phrom đặt tên theo con vật cưỡi của thần là voi Erawan, bên cạnh khách sạn thì công việc mới sớm hoàn thành. Đó chính là nguồn gốc của ngôi miếu Erawan đầu tiên ở Bangkok hay còn gọi là San Thao Maha Phra Phrom (ศาลท้าวมหาพรหม - miếu thờ thần Phra Phrom) nằm tại giao lộ Jajprasong, gần khách sạn Grand Hyatt Arawan. Ngôi miếu đã trở thành địa điểm tâm linh nổi tiếng nhất Thái Lan khi mà hàng ngày có đến hàng ngàn du khách Á Châu và người Thái đến đây chiêm bái và cầu xin. Pho tượng thần Phra Phrom phủ plastic được an vị trong miếu vào ngày 9 tháng 11 năm 1956 và ngày này trở thành ngày lễ quan trọng đối với tín đồ và những người đến xin lộc hàng năm[3]. Tháng 03 năm 2006, pho tượng gốc đã bị một kẻ quá khích phá hoại, đến tháng 05 cùng năm người Thái đã dựng lại một pho tượng mới nhưng mới đây nhất, ngày 17 tháng 08 năm 2015 lại xảy ra một vụ đánh bom ra tại ngôi đền cướp đi sinh mạng của 20 người và làm nhiều người khác bị thương.
Từ khóa: Phra Phrom, Nang Kwak, Supawadee, Erawan, Phạm Thiên, Bà Ngoắc, Niềng Bột, Niềng Boi, tín ngưỡng, thương mại, Khmer, Thái Lan, Việt Nam.
Dẫn nhập
Mặc dù Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada Buddhism) là tôn giáo chính ở Thái Lan nhưng trong đời sống tâm linh, người Thái luôn chịu sự chi phối bởi một hệ thống thần linh Bà La Môn giáo và những vị thần trong tôn giáo bản địa. Phra là tên gọi của những vị thần dạng này. Họ không phải là những hóa thân hay nhân vật tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca Mầu Ni (Sakyamuni) nhưng lại tác động lớn đến nghi thức thờ cúng của người Thái. Người Thái tin rằng hàng năm mỗi người Thái đều bị kiểm soát bởi những vị Phra nhất định, nên việc cầu cúng rất quan trọng trong nghi lễ vòng đời của họ. Trong số đó, Phra Phrom hay Maha Phra Phrom là một trong ba vị thần chủ Bà La Môn giáo được người Thái xem là đại diện cho Đức Phật thuyết pháp cho chư thiên và thế gian. Tượng thần Phra Phrom trong chùa Thái Lan luôn được thể hiện bên cạnh Đức Phật, đôi khi Phra Phrom còn được thể hiện trong vai trò thần bảo vệ hướng Nam của ngôi chùa Phật giáo Theravada.
Ngoài thần Phra Phrom, người Thái còn thờ Nang Kwack, nữ thần Tài lộc mang lại may mắn cho việc buôn bán ở các cửa hiệu hay trung tâm thương mại. Bà được thể hiện trong hình dáng của một mỹ nữ, ngồi bó gối trên bệ hoa sen hoặc trên một chiếc ngai. Đôi bàn chân đuổi thẳng ra phía sau, lòng bàn chân để ngửa. Đây cũng là tư thế ngồi phổ biến của phụ nữ Thái Lan khi tham gia các nghi lễ truyền thống trong chùa. Đầu Nang Kwak đội vương miện hình lược cài trang trí hoa văn cầu kỳ, tóc xõa sau lưng, y phục phần trên chỉ che trên ngực, bên dưới là chiếc sarong dày nặng trang trí nhiều hoa văn. Tư thế tay phổ biến là: tay phải giơ cao ngang đầu, lòng bàn tay khum lại, trong tư thế này gọi là “ngoắc” hay mời gọi khách hàng và cũng là tư thế quan trọng nhất khiến cho người Thái gọi nữ thần là Nang Kwak (Nàng Ngoắc). Tay trái có nhiều tư thế khác nhau như thả lỏng xuống phần bệ tượng, đặt trên đùi trái, cầm bình nước hoặc túi vàng đặt trên đùi trái. Bệ tượng được trang trí xung quanh bằng những thỏi vàng và đồng tiền Âm - Dương kiểu Trung Hoa. Mặc dù màu đỏ là màu chủ đạo nhưng tượng Nang Kwak cũng được sơn bằng nhiều màu khác nhau như: màu vàng, màu bạc và màu xanh xen đỏ.
Thờ Phra Phrom và Nang Kwak ở Thái Lan
Thần Phra Rhrom
Phra Phrum hay Phra Phrom (พระพรหม) là cách gọi của các dân tộc Thái, Lào và Khmer nhằm chỉ thần Brahma[1]. Sự tích lễ mừng năm mới, Chom Chnam Thmay của người Khmer Nam Bộ hay Maha Songkran[2] của người Thái đều có cốt chuyện giống nhau liên quan đến việc thần Maha Phra Phrum tự cắt đầu mình vì thua hoàng tử Thôn Ma Ban trong một cuộc đấu trí bằng ba câu hỏi. Chiếc đầu của thần Phra Phrom được bảy người con gái cất giữ cẩn thận trong một tòa tháp xây trên ngọn núi Phra Sumen và hàng năm vào thời điểm giao thừa bảy người con gái mỗi cô đại diện cho một năm sẽ tổ chức đại lễ rước chiếc đầu bốn mặt của cha mình đi ba vòng quanh ngọn núi này. Cùng tham gia với họ còn có một vị thiên tôn, con trai của Đế Thích Thiên (Phra In) cưỡi linh thú dẫn đầu 33 vạn chư thiên hộ vệ bảy người con gái hoàn thành đại lễ. Đây cũng là nguồn gốc của lễ đón chư thiên trong giờ giao thừa ở Thái Lan và cộng đồng Khmer ở Nam Bộ đánh dấu thời khắc quan trọng khi mặt trời đi vào cung Hoàng đạo kết thúc chu kỳ năm cũ để bước sang năm mới theo thiên văn và lịch pháp của Ấn Độ.
Tục thờ thần Phra Phrom hiện nay rất phổ biến ở Thái Lan nhưng việc thờ thần bên ngoài các ngôi chùa Phật giáo chỉ xuất hiện trong khoảng cuối thập niên 1950 từ việc xây dựng khách sạn Grand Hyatt Arawan gặp nhiều sự cố huyền bí mà khoa học không lý giải nổi. Nhà đầu tư tham vấn các tu sĩ Bà La Môn giáo và được khuyên phải lập một ngôi miếu thờ thần Phra Phrom đặt tên theo con vật cưỡi của thần là voi Erawan, bên cạnh khách sạn thì công việc mới sớm hoàn thành. Đó chính là nguồn gốc của ngôi miếu Erawan đầu tiên ở Bangkok hay còn gọi là San Thao Maha Phra Phrom (ศาลท้าวมหาพรหม - miếu thờ thần Phra Phrom) nằm tại giao lộ Jajprasong, gần khách sạn Grand Hyatt Arawan. Ngôi miếu đã trở thành địa điểm tâm linh nổi tiếng nhất Thái Lan khi mà hàng ngày có đến hàng ngàn du khách Á Châu và người Thái đến đây chiêm bái và cầu xin. Pho tượng thần Phra Phrom phủ plastic được an vị trong miếu vào ngày 9 tháng 11 năm 1956 và ngày này trở thành ngày lễ quan trọng đối với tín đồ và những người đến xin lộc hàng năm[3]. Tháng 03 năm 2006, pho tượng gốc đã bị một kẻ quá khích phá hoại, đến tháng 05 cùng năm người Thái đã dựng lại một pho tượng mới nhưng mới đây nhất, ngày 17 tháng 08 năm 2015 lại xảy ra một vụ đánh bom ra tại ngôi đền cướp đi sinh mạng của 20 người và làm nhiều người khác bị thương.

Tượng thần Maha Phra Phrom tại miếu Erawan, đường Pracharasong, Bangkok – Thái Lan.
Nguồn: www.amarinplaza.com
Pho tượng thần Phra Phrom trong miếu được thể hiện có bốn mặt, mỗi mặt hình ra một hướng. Tính theo chiều kim đồng hồ bắt đầu với hướng từ phía cổng đi vào các mặt sẽ mang ý nghĩa hộ trì cho tín đồ như sau: mặt thứ nhất hộ trì bình an và sức khẻo; mặt thứ hai hộ trì thịnh vượng và tài lộc; mặt thứ ba hộ trì cho các mối quan hệ tốt đẹp và mặt thứ tư bảo vệ tín đồ tránh ma quỷ làm hại.
Với niềm tin từ sự linh nghiệm của ngôi miếu Erawan đầu tiên, người Thái đổ xô xây dựng hàng loạt ngôi miếu thờ thần Phra Phrom trong các khách sạn, công ty, siêu thị hay lập các bàn thờ trong văn phòng chính của công ty, xí nghiệp, nhà máy. Rồi các miếu thờ cũng được dựng lên tại những ngã tư, ngã ba đường, giao lộ với niềm tin thần Maha Phra Phrom sẽ làm hạn chế tại nạn giao thông. Niềm tin này của người Thái đã biến thần Brahma chủ thể ngôi Sáng tạo ở Ấn Độ thành thần cai quản oan hồn trong văn hóa Thái Lan. Con thiên nga Hamsa, vật cưỡi truyền thống của thần Brahma trong thần thoại Ấn Độ được thay thế bằng con bạch tượng ba đầu Eravan tượng trưng cho Tam bảo, Tam giới của nhà Phật và cũng bao hàm luôn cả ba ngôi: Sáng tạo, Bảo tồn và Hủy diệt trong văn hóa Thái Lan.
Nang Kwak - nữ thần tài lộc
Ở Thái Lan, Nang Kwak (นางกวัก) được xem là nữ thần Tài lộc, điển tích về bà thuộc dòng văn học dân gian Thái Lan nên có nhiều biến thể khác nhau. Theo bài viết “Nang Kwak, Deity of Merchants” (Nang Kwak, vị thần của giới thương nhân) thì có hai truyền thuyết về Nang Kwak hiện phổ biến ở Thái Lan[4][5]. Truyền thuyết thứ nhất liên quan đến Phật giáo cho rằng chuyện Nang Kwak xảy trong thời kỳ đạo Phật hình thành cách nay khoảng 2.500 năm. Tại một thị trấn nhỏ có tên là Michigaasandhanakara thuộc tỉnh Sawadtii của Ấn Độ có một đôi vợ chồng lái buôn là ông Sujidtaprahma và bà Sumanta, họ có với nhau một người con gái tên là Supawadee. Gia đình này bán những món hàng nhỏ lẻ ngoài chợ để kiếm sống qua ngày. Một hôm ông Sujidtaprahma bàn với vợ về một kế hoạch tương lai bằng cách cố gắng mở rộng buôn bán để kiếm thêm lợi nhuận và dành dụm tiền cho tuổi già. Thực hiện kế hoạch, họ mua một chiếc xe đẩy để có thể đưa hàng đi bán tại các thị trấn khác và làng quê. Khi trở về họ mua những hàng hóa ở địa phương rồi bán lại ở Sawadtii. Người con gái Supawadee đôi khi cũng theo phụ giúp cha mẹ mình. Một ngày nọ, Supawadee theo cha mẹ bán hàng ở một thị trấn xa, bà tình cờ nghe được những lời giảng của một vị La Hán tên là Phra Gumam Gasaba và nhanh chóng giác ngộ, nên bà đã tìm đến với Tam bảo. Ngài Gasaba nhận ra sự mộ đạo của Supawadee bèn truyền dạy chánh pháp và phép mầu là cách đọc những lời chúc phúc cho các thương nhân và gia đình nàng. Khi gia đình Supawadee đến bán hàng ở một thị trấn khác, nhân duyên lại đến với bà khi gặp được ngài La Hán Phra Sivali là một vị danh tăng du thuyết, đệ tử thân cận của Đức Phật Thích Ca. Phra Sivali là con người kỳ lạ, ông đản sinh sau khi mẹ ông phải mang thai 7 năm, 7 tháng và 7 ngày. Chính điều đã làm cho Sivali sở hữu một năng lực nhiệm mầu và một trí tuệ tuyệt vời, ông đã tập trung tất cả quyền năng hiện hữu để truyền dạy cho Supawadee.
Với niềm tin từ sự linh nghiệm của ngôi miếu Erawan đầu tiên, người Thái đổ xô xây dựng hàng loạt ngôi miếu thờ thần Phra Phrom trong các khách sạn, công ty, siêu thị hay lập các bàn thờ trong văn phòng chính của công ty, xí nghiệp, nhà máy. Rồi các miếu thờ cũng được dựng lên tại những ngã tư, ngã ba đường, giao lộ với niềm tin thần Maha Phra Phrom sẽ làm hạn chế tại nạn giao thông. Niềm tin này của người Thái đã biến thần Brahma chủ thể ngôi Sáng tạo ở Ấn Độ thành thần cai quản oan hồn trong văn hóa Thái Lan. Con thiên nga Hamsa, vật cưỡi truyền thống của thần Brahma trong thần thoại Ấn Độ được thay thế bằng con bạch tượng ba đầu Eravan tượng trưng cho Tam bảo, Tam giới của nhà Phật và cũng bao hàm luôn cả ba ngôi: Sáng tạo, Bảo tồn và Hủy diệt trong văn hóa Thái Lan.
Nang Kwak - nữ thần tài lộc
Ở Thái Lan, Nang Kwak (นางกวัก) được xem là nữ thần Tài lộc, điển tích về bà thuộc dòng văn học dân gian Thái Lan nên có nhiều biến thể khác nhau. Theo bài viết “Nang Kwak, Deity of Merchants” (Nang Kwak, vị thần của giới thương nhân) thì có hai truyền thuyết về Nang Kwak hiện phổ biến ở Thái Lan[4][5]. Truyền thuyết thứ nhất liên quan đến Phật giáo cho rằng chuyện Nang Kwak xảy trong thời kỳ đạo Phật hình thành cách nay khoảng 2.500 năm. Tại một thị trấn nhỏ có tên là Michigaasandhanakara thuộc tỉnh Sawadtii của Ấn Độ có một đôi vợ chồng lái buôn là ông Sujidtaprahma và bà Sumanta, họ có với nhau một người con gái tên là Supawadee. Gia đình này bán những món hàng nhỏ lẻ ngoài chợ để kiếm sống qua ngày. Một hôm ông Sujidtaprahma bàn với vợ về một kế hoạch tương lai bằng cách cố gắng mở rộng buôn bán để kiếm thêm lợi nhuận và dành dụm tiền cho tuổi già. Thực hiện kế hoạch, họ mua một chiếc xe đẩy để có thể đưa hàng đi bán tại các thị trấn khác và làng quê. Khi trở về họ mua những hàng hóa ở địa phương rồi bán lại ở Sawadtii. Người con gái Supawadee đôi khi cũng theo phụ giúp cha mẹ mình. Một ngày nọ, Supawadee theo cha mẹ bán hàng ở một thị trấn xa, bà tình cờ nghe được những lời giảng của một vị La Hán tên là Phra Gumam Gasaba và nhanh chóng giác ngộ, nên bà đã tìm đến với Tam bảo. Ngài Gasaba nhận ra sự mộ đạo của Supawadee bèn truyền dạy chánh pháp và phép mầu là cách đọc những lời chúc phúc cho các thương nhân và gia đình nàng. Khi gia đình Supawadee đến bán hàng ở một thị trấn khác, nhân duyên lại đến với bà khi gặp được ngài La Hán Phra Sivali là một vị danh tăng du thuyết, đệ tử thân cận của Đức Phật Thích Ca. Phra Sivali là con người kỳ lạ, ông đản sinh sau khi mẹ ông phải mang thai 7 năm, 7 tháng và 7 ngày. Chính điều đã làm cho Sivali sở hữu một năng lực nhiệm mầu và một trí tuệ tuyệt vời, ông đã tập trung tất cả quyền năng hiện hữu để truyền dạy cho Supawadee.

Tượng Nang Kwak với túi vàng đặt trên đùi trái. Nguồn: www.amuletcity.org


Lá bùa vẽ hình Nang Kwak bên dưới là hai sinh thực khí nam có chân sư tử. nguồn: www.wikiwand.com
Với phép thuật mà hai vị La Hán đã truyền dạy, người ta thấy rằng mỗi lúc Supawadee đến bên chiếc xe hàng của cha mẹ thì việc buôn bán trở nên thuận lợi đến kỳ lạ, tất cả hàng hóa đều được bán hết cùng một lúc. Khi Supawadee đồng hành cùng cha mẹ ra chợ thì hàng hóa của gia đình trở nên khan hiếm, cha mẹ cô bèn quyết định để con gái cùng tham gia buôn bán với họ bởi họ biết rằng phúc lành mà các vị La Hán ban cho đã bắt đầu phát huy hiệu nghiệm. Việc buôn bán thuận lợi đã mang về cho gia đình Supawadee một khối lượng tài sản kếch sù, chỉ trong thời gian ngắn ông bà Sujidtaprahma đã trở thành thương nhân giàu có. Ông Sujidtaprahma bèn quyết định tìm đến chánh pháp (Dharma) của Đức Phật và hành thiện giúp đời. Ông bỏ tiền ra xây công viên “Ampatagawam” thiết lập nhiều chỗ tá túc cho những người nghèo khổ (Bhikkhu), sau đó ông xây Phật điện “Wat Machigaasandharaam” rồi cung thỉnh vị La Hán Phra Sutamma đến trụ trì. Ông luôn tích cực trong công việc từ thiện và sẳn lòng hỗ trợ cho những thương nhân khác bán những loại hàng mà ông đang bán chạy nhất. Ông cũng kêu gọi mọi người cùng đi với ông đến những địa phương mà hàng hóa có thể bán được. Những thương nhân đi theo ông sớm nhận ra phép thuật Metta Mahaniyom của Supawadee qua những lời chúc phúc của bà mà cha mẹ đã trở thành những thương nhân giàu có và họ bắt đầu tôn thờ bà như một biểu tượng của sự may mắn trong buôn bán.
Nhiều năm sau, Sujidtaprahma và vợ lớn tuổi và qua đời, rồi đến lượt Supawadee cũng tạ thế nhưng truyền thuyết về bà vẫn lan truyền không ngừng trong những nhóm người làm nghề buôn bán. Giới buôn bán tôn bà làm thần thương buôn, họ tạc tượng bà ngồi trên xe đẩy để thờ cúng, xin ân điển phước lành và họ thường nhận được những hồi báo tốt đẹp trong buôn bán. Dần dần việc thờ cúng Supawadee trở thành một dạng tín ngưỡng phổ biến, người ta tin rằng sẽ gặp may trong buôn bán nếu tìm một pho tượng Supawadee làm lễ “hô thần nhập tượng” (Pooja) mời bà về chứng giám vì nguồn gốc là Supawadee thường đồng hành cùng cha mẹ mình trên chiếc xe đẩy hàng và bà đã mang đến sự giàu có cho gia đình. Tất cả bốn đẳng cấp trong xã hội Hindu giáo ở Ấn Độ đều chịu ảnh hưởng tín ngưỡng thờ Supawadee là người Bà La Môn, Chiến sĩ, Thương nhân, Thợ thủ công. Thậm chí cả đẳng cấp nô lệ (Sudra) đã thờ cúng và tôn vinh Supawadee. Việc thực hiện lễ Pooja cho Nang Kwak ngày càng phổ biến hơn, theo truyền thuyết nhiều thương nhân đã trở nên cực kỳ giàu có sau khi làm Pooja cho Supawadee. Đặc biệt khi thực hiện nghi lễ này, pháp sư phải xoay pho tượng theo cả bốn hướng thì mới hiệu nghiệm.
Tín ngưỡng thờ Supawadee ảnh hưởng vào đời sống tinh thần của người Thái Lan từ khi Phật giáo được truyền bá đến đây và sự phổ biến ngày nay có thể bắt đầu từ thời xa xưa. Những tu sĩ Bà La Môn thường rất giỏi nghi thức luyện chú Kata Akom dành cho Supawadee và cũng chính họ đã thay đổi hình dáng của pho tượng từ vị trí của một nữ nhân ngồi trên xe đẩy kiểu Ấn Độ sang hình tượng phụ nữ Thái ngồi trên bệ hoa sen với dáng điệu mời gọi khách hàng. Đầu tiên những người Bà La Môn chỉ sử dụng tượng Supawadee cho riêng công việc làm ăn buôn bán của họ nhưng khi họ nhận thấy nhiều người Thái tin vào quyền năng của Supawadee thì họ bắt đầu làm tượng kiêm luôn nghi thức niệm chú Kata để bán cho giới làm ăn thờ cúng. Chính sự thay đổi vị trí ngồi và tư thế tay mà Supawadee nhận được cái tên mới phổ biến ở Thái Lan là Nang Kwak (Nang nghĩa là Nàng chỉ người con gái, Kwak nghĩa là vẫy gọi hay ngoắc). Vậy Nang Kwak mang ý nghĩa là Nàng Ngoắc, Nàng Vẫy, khi đến Thái Lan chúng ta sẽ dễ dàng bắt gặp hình ảnh Nàng Ngoắc vẫy gọi chúng ta đến mua hàng trong các cửa hàng của người Thái Lan. Nang Kwak còn được thể hiện dưới dạng tranh vẽ hay khăn bùa (Pha Yant) cùng với cá sấu, nàng tiên cá và những sinh thực khí của nam giới.
Một truyền thuyết thứ hai cho rằng, Nang Kwak có nguồn gốc từ sử thi Ramakien vốn được hoàng gia Thái Lan cải biên từ sử thi Ramayana của Ấn Độ. Câu chuyện kể rằng Nang Kwak là con gái của Phu Jao Khoa Khiaw, vị vua A Tu La (Asura) cai quản cõi Jadra Maha Raachiga nằm bên dưới tầng trời Đạo Lợi (Tavatimsa) của Đế Thích Thiên Indra hay Phra In. Ông còn được người đời gọi bằng tên khác là Phra Panasabodee nghĩa là Chúa Sơn Lâm. Phu Jao Khao Khiaw có một người bạn thân cũng là vua A Tu La tên là Taw Gog Khang (hay Taw Amurach) khai chiến với thần Phra Ram (hoàng tử Rama), hóa thân của thần Vishnu. Taw Gog Khaang bị Phra Ram ném một cái cây xuyên qua ngực rơi xuống từ tầng trời, dính chặt vào sườn núi Phra Sumen. Phra Ram trao cho Gog một lời nguyền: “Hễ chừng nào con cháu của ngươi dệt xong chiếc áo Cà sa Civara bằng cánh hoa sen, rồi mang đến cúng dường cho Đức Phật Pra Ariya Maedtrai (Phật Di Lặc) thì ta sẽ tha tội cho ngươi”.
Nàng Prajant con gái của Gog Khaang muốn sớm cứu cha nên đêm ngày lo dệt áo để kịp làm quà cúng dường cho Đức Phật Di Lặc khi ngài giáng hạ cứu thế. Do Gog Khaang bị treo trên sườn núi Phra Sumen, nàng Prajant phải thay cha lo toan mọi việc. Nàng phải bỏ công sức và thời gian để dệt áo nên không có thời gian buôn bán kiếm sống và điều hành cửa hàng của cha để lại. Khi Jao Kho Khiaw nghe tin này ông cảm động và quyết định cử người con gái tài năng của mình là Nang Kwak đến làm bạn với Prajant và giúp nàng quản lý thương mại. Nang Kwak biết được nhiều phép mầu trong buôn bán, nàng bèn kêu gọi các thương nhân và những quý tộc giàu có trong vùng cùng đổ về khu vực nhà của nàng Prajant mở cửa hàng buôn bán. Nang Kwak ban cho họ nhiều lợi tức bằng vàng, bạc và tiền. Với sự trợ giúp của Nang Kwak, nàng Prajant đã dệt xong chiếc áo Cà sa giải thoát cho cha và cũng trở nên giàu có với một cuộc sống sung túc.
Ảnh hưởng của tục thờ Phra Phrom và Nang Kwak ở Vệt Nam
Ảnh hưởng của Phra Phrom trong chùa Nam tông Khmer và Nam tông Việt
Việc thờ thần Maha Phra Phrom chỉ xuất hiện trong thời gian gần đây khi Việt Nam và Thái Lan phát triển tự do tiếp xúc thương mại, du lịch và văn hóa. Mối quan hệ mở ra nhiều chiều hướng mới cho hai quốc gia kể từ thời thủ tướng Thái Lan Chulekpai điều hành đất nước. Câu nói nổi tiếng của ông: “chúng ta hãy biến chiến trường thành thương trường” đã thể hiện những thay đổi lớn trong chính sách ngoại giao của Thái Lan đối với Việt Nam, đánh sự kết thúc của giai đoạn đối đầu căng thẳng giữa hai quốc gia không cùng ý thức hệ trong thời kỳ hậu chiến tranh Việt Nam.
Chính sách “Đổi mới” của Việt Nam bắt đầu từ năm 1986 đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các tăng sĩ người Khmer ở Nam Bộ và người Việt theo Phật giáo Nguyên Thủy đến học tập tại trường Đại học Phật giáo nổi tiếng của Thái Lan, Maha Chulalkonkorn University. Khi các vị tăng sĩ về nước, họ đã ứng dụng nhiều mẫu hình của kiến trúc chùa chiền của Thái Lan trong xây dựng các ngôi chùa Phật giáo Nam tông ở Việt Nam như một dấu ấn kỷ niệm với đất nước của “những nụ cười”, nơi mà họ đã đến học tập và sinh sống trong một thời gian dài. Trường hợp kiến trúc dạng này, có thể thấy ở chùa Bửu Long, tổ đình Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam tọa lạc tại số 81 đường Nguyễn Xiển, phường Long Bình, quận 09, thành phố Hồ Chí Minh, mà người Việt Nam quen gọi là chùa Thái Lan. Trước tháp lớn (Chedi) các vị sư cho dựng một ngôi miếu nhỏ thờ thần Maha Phra Phrom, trên cột miếu chạm biểu tượng con voi thần Erawan ba đầu. Song theo tín ngưỡng của người Việt thì người ta quen gọi đây là bàn thiên hay bàn thờ trời, hiếm có người nào biết được chức năng của ngôi miếu nhỏ này là thờ thần Phra Phrom thuộc dòng tín ngưỡng của Phật giáo Nam tông Thái Lan. Trong các chùa Khmer Nam Bộ gần đây cũng xuất hiện kiểu miếu thờ Eravan trước cửa chùa như trường hợp chùa Phô Thi Vông ở quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, chùa Knong Srok (chùa Quy Nông) ở huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh là những ngôi chùa điển hình nhất cho nghi thức thờ thần Maha Phra Phrom nguyên thân theo tín ngưỡng Thái Lan. Miếu thờ thường được dựng trước cửa chánh điện theo quan niệm thần Maha Phra Phrom trấn giữ con đường thần đạo đi vào ngọn Tudi sơn của Đức Phật. Kiểu tượng Maha Phra Phrom thường thể hiện có bốn mặt, đội mũ kiểu Kiritamukuta (chiếc mũ vinh quang) dành cho bậc đế vương dựa theo mô tả trong thần phả Ấn Độ. Y phục của thần theo kiểu trang phục cổ của Thái Lan, tư thế ngồi vương tọa trên một chiếc bệ, chân phải xếp trên ngai, chân trái đặt xuống đất. Thần có tám tay cầm các bảo vật mang ý nghĩa như sau: tay cầm Lệnh kỳ biểu hiện cho "Vạn Năng Pháp Lực"; cầm Phật kinh (thật ra là kinh Vệ Đà) biểu hiện cho Trí tuệ; cầm Pháp loa (Ốc báu) biểu hiện cho ban phúc; cầm Minh luân (Bánh xe ánh sáng) biểu hiện cho thiêu hủy phiền não; cầm quyền trượng biểu hiện cho Thành tựu tối thượng; cầm bình nước biểu tượng cho phúc lành cứu thế; cầm Niệm châu biểu hiện cho làm chủ Luân hồi. Tay còn lại bắt ấn trước ngực biểu hiện cho sự che chở.
Nhiều năm sau, Sujidtaprahma và vợ lớn tuổi và qua đời, rồi đến lượt Supawadee cũng tạ thế nhưng truyền thuyết về bà vẫn lan truyền không ngừng trong những nhóm người làm nghề buôn bán. Giới buôn bán tôn bà làm thần thương buôn, họ tạc tượng bà ngồi trên xe đẩy để thờ cúng, xin ân điển phước lành và họ thường nhận được những hồi báo tốt đẹp trong buôn bán. Dần dần việc thờ cúng Supawadee trở thành một dạng tín ngưỡng phổ biến, người ta tin rằng sẽ gặp may trong buôn bán nếu tìm một pho tượng Supawadee làm lễ “hô thần nhập tượng” (Pooja) mời bà về chứng giám vì nguồn gốc là Supawadee thường đồng hành cùng cha mẹ mình trên chiếc xe đẩy hàng và bà đã mang đến sự giàu có cho gia đình. Tất cả bốn đẳng cấp trong xã hội Hindu giáo ở Ấn Độ đều chịu ảnh hưởng tín ngưỡng thờ Supawadee là người Bà La Môn, Chiến sĩ, Thương nhân, Thợ thủ công. Thậm chí cả đẳng cấp nô lệ (Sudra) đã thờ cúng và tôn vinh Supawadee. Việc thực hiện lễ Pooja cho Nang Kwak ngày càng phổ biến hơn, theo truyền thuyết nhiều thương nhân đã trở nên cực kỳ giàu có sau khi làm Pooja cho Supawadee. Đặc biệt khi thực hiện nghi lễ này, pháp sư phải xoay pho tượng theo cả bốn hướng thì mới hiệu nghiệm.
Tín ngưỡng thờ Supawadee ảnh hưởng vào đời sống tinh thần của người Thái Lan từ khi Phật giáo được truyền bá đến đây và sự phổ biến ngày nay có thể bắt đầu từ thời xa xưa. Những tu sĩ Bà La Môn thường rất giỏi nghi thức luyện chú Kata Akom dành cho Supawadee và cũng chính họ đã thay đổi hình dáng của pho tượng từ vị trí của một nữ nhân ngồi trên xe đẩy kiểu Ấn Độ sang hình tượng phụ nữ Thái ngồi trên bệ hoa sen với dáng điệu mời gọi khách hàng. Đầu tiên những người Bà La Môn chỉ sử dụng tượng Supawadee cho riêng công việc làm ăn buôn bán của họ nhưng khi họ nhận thấy nhiều người Thái tin vào quyền năng của Supawadee thì họ bắt đầu làm tượng kiêm luôn nghi thức niệm chú Kata để bán cho giới làm ăn thờ cúng. Chính sự thay đổi vị trí ngồi và tư thế tay mà Supawadee nhận được cái tên mới phổ biến ở Thái Lan là Nang Kwak (Nang nghĩa là Nàng chỉ người con gái, Kwak nghĩa là vẫy gọi hay ngoắc). Vậy Nang Kwak mang ý nghĩa là Nàng Ngoắc, Nàng Vẫy, khi đến Thái Lan chúng ta sẽ dễ dàng bắt gặp hình ảnh Nàng Ngoắc vẫy gọi chúng ta đến mua hàng trong các cửa hàng của người Thái Lan. Nang Kwak còn được thể hiện dưới dạng tranh vẽ hay khăn bùa (Pha Yant) cùng với cá sấu, nàng tiên cá và những sinh thực khí của nam giới.
Một truyền thuyết thứ hai cho rằng, Nang Kwak có nguồn gốc từ sử thi Ramakien vốn được hoàng gia Thái Lan cải biên từ sử thi Ramayana của Ấn Độ. Câu chuyện kể rằng Nang Kwak là con gái của Phu Jao Khoa Khiaw, vị vua A Tu La (Asura) cai quản cõi Jadra Maha Raachiga nằm bên dưới tầng trời Đạo Lợi (Tavatimsa) của Đế Thích Thiên Indra hay Phra In. Ông còn được người đời gọi bằng tên khác là Phra Panasabodee nghĩa là Chúa Sơn Lâm. Phu Jao Khao Khiaw có một người bạn thân cũng là vua A Tu La tên là Taw Gog Khang (hay Taw Amurach) khai chiến với thần Phra Ram (hoàng tử Rama), hóa thân của thần Vishnu. Taw Gog Khaang bị Phra Ram ném một cái cây xuyên qua ngực rơi xuống từ tầng trời, dính chặt vào sườn núi Phra Sumen. Phra Ram trao cho Gog một lời nguyền: “Hễ chừng nào con cháu của ngươi dệt xong chiếc áo Cà sa Civara bằng cánh hoa sen, rồi mang đến cúng dường cho Đức Phật Pra Ariya Maedtrai (Phật Di Lặc) thì ta sẽ tha tội cho ngươi”.
Nàng Prajant con gái của Gog Khaang muốn sớm cứu cha nên đêm ngày lo dệt áo để kịp làm quà cúng dường cho Đức Phật Di Lặc khi ngài giáng hạ cứu thế. Do Gog Khaang bị treo trên sườn núi Phra Sumen, nàng Prajant phải thay cha lo toan mọi việc. Nàng phải bỏ công sức và thời gian để dệt áo nên không có thời gian buôn bán kiếm sống và điều hành cửa hàng của cha để lại. Khi Jao Kho Khiaw nghe tin này ông cảm động và quyết định cử người con gái tài năng của mình là Nang Kwak đến làm bạn với Prajant và giúp nàng quản lý thương mại. Nang Kwak biết được nhiều phép mầu trong buôn bán, nàng bèn kêu gọi các thương nhân và những quý tộc giàu có trong vùng cùng đổ về khu vực nhà của nàng Prajant mở cửa hàng buôn bán. Nang Kwak ban cho họ nhiều lợi tức bằng vàng, bạc và tiền. Với sự trợ giúp của Nang Kwak, nàng Prajant đã dệt xong chiếc áo Cà sa giải thoát cho cha và cũng trở nên giàu có với một cuộc sống sung túc.
Ảnh hưởng của tục thờ Phra Phrom và Nang Kwak ở Vệt Nam
Ảnh hưởng của Phra Phrom trong chùa Nam tông Khmer và Nam tông Việt
Việc thờ thần Maha Phra Phrom chỉ xuất hiện trong thời gian gần đây khi Việt Nam và Thái Lan phát triển tự do tiếp xúc thương mại, du lịch và văn hóa. Mối quan hệ mở ra nhiều chiều hướng mới cho hai quốc gia kể từ thời thủ tướng Thái Lan Chulekpai điều hành đất nước. Câu nói nổi tiếng của ông: “chúng ta hãy biến chiến trường thành thương trường” đã thể hiện những thay đổi lớn trong chính sách ngoại giao của Thái Lan đối với Việt Nam, đánh sự kết thúc của giai đoạn đối đầu căng thẳng giữa hai quốc gia không cùng ý thức hệ trong thời kỳ hậu chiến tranh Việt Nam.
Chính sách “Đổi mới” của Việt Nam bắt đầu từ năm 1986 đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các tăng sĩ người Khmer ở Nam Bộ và người Việt theo Phật giáo Nguyên Thủy đến học tập tại trường Đại học Phật giáo nổi tiếng của Thái Lan, Maha Chulalkonkorn University. Khi các vị tăng sĩ về nước, họ đã ứng dụng nhiều mẫu hình của kiến trúc chùa chiền của Thái Lan trong xây dựng các ngôi chùa Phật giáo Nam tông ở Việt Nam như một dấu ấn kỷ niệm với đất nước của “những nụ cười”, nơi mà họ đã đến học tập và sinh sống trong một thời gian dài. Trường hợp kiến trúc dạng này, có thể thấy ở chùa Bửu Long, tổ đình Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam tọa lạc tại số 81 đường Nguyễn Xiển, phường Long Bình, quận 09, thành phố Hồ Chí Minh, mà người Việt Nam quen gọi là chùa Thái Lan. Trước tháp lớn (Chedi) các vị sư cho dựng một ngôi miếu nhỏ thờ thần Maha Phra Phrom, trên cột miếu chạm biểu tượng con voi thần Erawan ba đầu. Song theo tín ngưỡng của người Việt thì người ta quen gọi đây là bàn thiên hay bàn thờ trời, hiếm có người nào biết được chức năng của ngôi miếu nhỏ này là thờ thần Phra Phrom thuộc dòng tín ngưỡng của Phật giáo Nam tông Thái Lan. Trong các chùa Khmer Nam Bộ gần đây cũng xuất hiện kiểu miếu thờ Eravan trước cửa chùa như trường hợp chùa Phô Thi Vông ở quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, chùa Knong Srok (chùa Quy Nông) ở huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh là những ngôi chùa điển hình nhất cho nghi thức thờ thần Maha Phra Phrom nguyên thân theo tín ngưỡng Thái Lan. Miếu thờ thường được dựng trước cửa chánh điện theo quan niệm thần Maha Phra Phrom trấn giữ con đường thần đạo đi vào ngọn Tudi sơn của Đức Phật. Kiểu tượng Maha Phra Phrom thường thể hiện có bốn mặt, đội mũ kiểu Kiritamukuta (chiếc mũ vinh quang) dành cho bậc đế vương dựa theo mô tả trong thần phả Ấn Độ. Y phục của thần theo kiểu trang phục cổ của Thái Lan, tư thế ngồi vương tọa trên một chiếc bệ, chân phải xếp trên ngai, chân trái đặt xuống đất. Thần có tám tay cầm các bảo vật mang ý nghĩa như sau: tay cầm Lệnh kỳ biểu hiện cho "Vạn Năng Pháp Lực"; cầm Phật kinh (thật ra là kinh Vệ Đà) biểu hiện cho Trí tuệ; cầm Pháp loa (Ốc báu) biểu hiện cho ban phúc; cầm Minh luân (Bánh xe ánh sáng) biểu hiện cho thiêu hủy phiền não; cầm quyền trượng biểu hiện cho Thành tựu tối thượng; cầm bình nước biểu tượng cho phúc lành cứu thế; cầm Niệm châu biểu hiện cho làm chủ Luân hồi. Tay còn lại bắt ấn trước ngực biểu hiện cho sự che chở.

Tượng thần Phra Phrom bốn mặt, tám tay theo phong cách Thái Lan tại chùa Pô Thi Vông, quận Tân Bình TP. HCM.
Ảnh: Phan Anh Tú
Ảnh: Phan Anh Tú
Người Khmer Nam Bộ khi đến chùa biết tượng đó là Maha Phra Phrom nhưng về tín ngưỡng thì họ quen thuộc với hình tượng Phra Phrum (người Khmer đọc là Phrum, không đọc là Phrom như người Thái) chỉ có cái đầu với bốn mặt quay ra bốn hướng, theo như mô tả trong sự tích Chôn Chnam Thmây là Phra Phrum tự cắt đầu mình để lưu giữ trên núi Mê Ru, còn thân thể thì biến thành làn khói xanh bay mất. Đối với người Khmer Nam Bộ, họ chưa đặt niềm tin vào kiểu tượng thần Maha Phra Phrom của Thái Lan vì tín ngưỡng này quá mới mẻ và xa lạ với đời sống tinh thần của họ. Chính vì vậy mà Maha Phra Phrom trong cộng đồng người Khmer Nam Bộ không thể đi ra ngoài phạm vi của nhà chùa như ở Thái Lan nơi chúng ta có thể tím thấy tượng thần Phra Phrom phổ biến trên đường phố, đường làng, ở giao lộ, trong các khách sạn và các công ty lớn. Khác với sự xuất hiện của tín ngưỡng thờ thần Maha Phra Phrom của Thái Lan trong các ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer và Nam tông Việt, tín ngưỡng Nang Kwak hoàn toàn không hiện diện trong phạm vi của các ngôi Phật giáo ở Việt Nam.
Ảnh hưởng của Phra Phrom và Nang Kwak trong các nhóm phật tử Việt-Hoa
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của tực thờ thần Phra Phrom của Thái Lan trong các nhóm phật tử người Việt và người Hoa, tôi nhận thầy nhiều điều khác lạ so với phật tử người Khmer Nam Bộ. Những phật tử Việt – Hoa tìm đến với Phật giáo Nam tông Khmer thường có nguồn gốc từ giới kinh doanh, làm ăn, buôn bán. Tính chất của công việc kinh doanh làm cho họ luôn tin vào những điều may rủi trên thương trường. Hiện nay sự kết hợp giữa tôn giáo và bùa chú luôn được các tăng sĩ chú trọng tại một số ngôi chùa thuộc hệ phái Phật giáo Nam tông Khmer. Đây chính là sợi dây kết nối mật thiết giữa những phật tử người Việt, người Hoa với các nhà sư Khmer Nam Bộ. Những người đến chùa ngoài việc nghe thuyết pháp bằng tiếng Việt hay tiếng Khmer, thể hiện hạnh cúng dường trai tăng tạo phước lành cho gia đình, cho công việc, họ còn nhờ đến các tăng sĩ Khmer thực hiện những nghi lễ thần bí khác như: chúc phúc, mở cửa hàng, động thổ nhà máy, xí nghiệp hay hóa giải những vấn đề trắc trở trong tình yêu, trong hôn nhân gia đình và thậm chí nhờ bùa chú để gặp thuận lợi khi xuất cảnh sang một quốc gia khác. Phật tử người Việt, người Hoa luôn đặt niềm tin vào quyền năng của thần chú, nghi lễ thần bí và những loại bùa hộ mệnh thuộc dòng Nam truyền hiện do các sư Khmer Nam Bộ nắm giữ. Dòng bùa chú này có lẻ tỏ ra nhiệm mầu hơn loại bùa chú của các thầy phù thủy người Việt, người Hoa như quan niệm của họ. Trong khi đó bùa chú là loại hình khoa học thần bí mà các nhà sư theo Phật giáo Bắc tông không chú trọng, ngoại trừ một số ít vị theo Phật giáo Mật tông. Sự thiếu hụt về mặt tâm linh, nhất là dạng “tín ngưỡng thương mại” đã được đáp ứng từ những nhà sư Khmer Nam Bộ và cũng làm cho dòng Phật giáo Nam tông Khmer có thêm những phật tử không phải là người Khmer.
Ảnh hưởng của Phra Phrom và Nang Kwak trong các nhóm phật tử Việt-Hoa
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của tực thờ thần Phra Phrom của Thái Lan trong các nhóm phật tử người Việt và người Hoa, tôi nhận thầy nhiều điều khác lạ so với phật tử người Khmer Nam Bộ. Những phật tử Việt – Hoa tìm đến với Phật giáo Nam tông Khmer thường có nguồn gốc từ giới kinh doanh, làm ăn, buôn bán. Tính chất của công việc kinh doanh làm cho họ luôn tin vào những điều may rủi trên thương trường. Hiện nay sự kết hợp giữa tôn giáo và bùa chú luôn được các tăng sĩ chú trọng tại một số ngôi chùa thuộc hệ phái Phật giáo Nam tông Khmer. Đây chính là sợi dây kết nối mật thiết giữa những phật tử người Việt, người Hoa với các nhà sư Khmer Nam Bộ. Những người đến chùa ngoài việc nghe thuyết pháp bằng tiếng Việt hay tiếng Khmer, thể hiện hạnh cúng dường trai tăng tạo phước lành cho gia đình, cho công việc, họ còn nhờ đến các tăng sĩ Khmer thực hiện những nghi lễ thần bí khác như: chúc phúc, mở cửa hàng, động thổ nhà máy, xí nghiệp hay hóa giải những vấn đề trắc trở trong tình yêu, trong hôn nhân gia đình và thậm chí nhờ bùa chú để gặp thuận lợi khi xuất cảnh sang một quốc gia khác. Phật tử người Việt, người Hoa luôn đặt niềm tin vào quyền năng của thần chú, nghi lễ thần bí và những loại bùa hộ mệnh thuộc dòng Nam truyền hiện do các sư Khmer Nam Bộ nắm giữ. Dòng bùa chú này có lẻ tỏ ra nhiệm mầu hơn loại bùa chú của các thầy phù thủy người Việt, người Hoa như quan niệm của họ. Trong khi đó bùa chú là loại hình khoa học thần bí mà các nhà sư theo Phật giáo Bắc tông không chú trọng, ngoại trừ một số ít vị theo Phật giáo Mật tông. Sự thiếu hụt về mặt tâm linh, nhất là dạng “tín ngưỡng thương mại” đã được đáp ứng từ những nhà sư Khmer Nam Bộ và cũng làm cho dòng Phật giáo Nam tông Khmer có thêm những phật tử không phải là người Khmer.

Tượng thần Phra Phrom được một chủ khách sạn trên đường Phạm Ngũ Lão thỉnh từ Thái Lan về hiện để trong chùa Nam tông Khmer để xin chú linh nghiệm. Nguồn: Phan Anh Tú

Pho tượng thần Phra Phrom được một doanh nghiệp thỉnh từ Campuchia về. Hiện thờ trong công ty sau khi các nhà sư Khmer niệm chú và làm lễ an vị. Nguồn: Phan Anh Tú

Pho tượng thần Phra Phrom được một doanh nghiệp thỉnh từ Campuchia về. Hiện thờ trong công ty sau khi các nhà sư Khmer niệm chú và làm lễ an vị. Nguồn: Phan Anh Tú
Phật tử người Việt, người Hoa thường thuộc dạng gia đình làm kinh tế nên họ cũng thường đi làm ăn xa, đi du lịch hay thậm chí là đi tìm bùa chú trên đất nước Thái Lan. Đôi khi qua trung gian của các nhà sư Khmer Nam Bộ từng tu học bên Thái Lan họ đã tìm đến một ngôi chùa Thái hay một vị đại sư cao tay để xin chú. Trong khi đó Thái Lan là đất nước phát triển mạnh về loại hình kinh tế dịch vụ mà trong đó màu sắc của tín ngưỡng thần bí ảnh hưởng quan trọng đến các hoạt động kinh doanh của họ. Người Việt Nam thường bắt gặp những pho tượng hay bàn thờ Nang Wack tại các cửa hàng ở thủ đô Bangkok, những tượng thần Maha Phra Phrom được thờ cúng trang trọng trong các khách sạn và công ty của người Thái mà ban đầu người Việt, người Hoa cũng chưa biết là thần gì. Những người Thái Lan và các hướng dẫn viên du lịch đã giúp giải thích cho họ ý nghĩa và công năng của các thần này nhưng thường người ta chỉ hiểu đơn giản là nếu thờ những thần này thì gặp may mắn trong làm ăn, vận may, tài lộc sẽ đến cho gia chủ. Vì người Thái Lan theo Phật giáo Nam tông, tôn giáo cùng hệ với người Khmer Nam Bộ nên khi mua tượng thần Phra Phrom hay Nang Kwak về Việt Nam, người Việt, người Hoa thường đưa vào chùa để các vị sư Khmer niệm kinh, đọc chú, làm lễ hô thần nhập tượng và nghi lễ cuối cùng thì diễn ra tại nơi mà phật tử muốn đặt tượng thờ gọi là lễ an vị tượng thần. Nghi thức mà các nhà sư Khmer khuyên phật tử là một pho tượng thần muốn linh nghiệm phải để trong chùa ít nhất 07 ngày điều này cũng giống như quan niệm của người Thái.
Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh, tượng Nang Kwak được thờ cúng phổ biến hơn thần Maha Phra Phrom vì Nang Kwak ở Việt Nam cũng được thờ tại những cửa hàng hay quán ăn như ở Thái Lan. Điều quan trọng là tượng Kwak thường có giá thành rẻ hơn tượng Phra Phrom rất nhiều. Do tượng thần Phra Phrom thường được đúc bằng đồng, có giá trị mỹ thuật cao hơn tượng Kwak làm bằng nhựa plastic. Người thờ thần Phra Phrom thường phải bỏ ra một khoản tiền lớn để mua tượng, cùng với chi phí cho các nghi lễ tôn giáo trước khi tượng thần được an vị. Hơn nữa, cho đến nay loại tượng thần Phra Phrom bằng đồng vẫn chưa sản xuất được tại Việt Nam, phần nhiều phật tử phải mua từ Thái Lan hoặc Campuchia mang về. Song tượng Nang Kwak hiện thời có đến mấy chục website rao bán với giá thành từ 350.000 – 500.000 VNĐ (tượng sản xuất tại Thái Lan có hình ảnh giới thiệu để khách hàng lựa chọn). Các website còn giải thích rất rõ công năng và ý nghĩa của tượng Nang Kwak, nghi thức thờ cúng, cách “vô bùa” và thậm chí là lễ vật cùng tế. Ngoài việc bán hàng trên mạng hiện nay ở quận 05 thành phố Hồ Chí Minh có một số cửa hàng của người Hoa bán tượng Mèo Ngoắc (mèo Maniki) và tượng Nang Kwak.
Người thờ Nang Kwak phần nhiều thuộc giới bình dân, buôn bán nhỏ hoặc mở quán ăn như trường hợp Nang Kwak được thờ cùng với thần Ganesha (thần Hạnh phúc – Tài lộc của Ấn Độ) tại nhà hàng chay Himalaya trên đường Nguyễn Văn Đậu, quận Bình Thạnh. Người Việt Nam biết đến Nang Kwak qua những tiếp xúc tương tự như trường hợp của tượng thần Phra Phrom. Họ cũng có mối liên hệ với nhà chùa Nam tông Khmer về mặt tôn giáo và nghi lễ nên tôi cũng tạm gọi họ là phật tử. Theo khảo sát của tôi tại một ngôi chùa Nam tông Khmer ở thành phố Hồ Chí Minh thì số lượng tượng Nang Kwak gửi về chùa hàng tháng nhiều hơn tượng thần Phra Phrum gấp mấy lần.
Thờ cúng Phra Phrom và Nang Kwak - những biến đổi so với Thái Lan
Phần lớn người Việt Nam chịu ảnh hưởng Phật giáo Bắc tông (Mahayana Buddhism) và có xu hướng đồng hóa những vị thần ngoài Phật giáo thành Phật. Thần Maha Phra Phrom là niềm tin mới đối với người Việt Nam, nên khi thấy người Thái đến chiêm bái nhiều ở miếu Erawan thì người Việt Nam cũng cho rằng đó là tượng Phật. Do hình dáng của thần Phra Phrom có bốn mặt, người Việt Nam bèn gọi là “Phật Bốn Mặt” hay “Tứ Diện Phật”. Đối với người Việt Nam ở Thành phố Hồ Chí Minh thì pháp danh “Phật Bốn Mặt” hay “Tứ Diện Phật” chính là tên gọi dành cho tượng thần Phra Phrom ở ngôi miếu Erawan nằm tại giao lộ Jajprasong - Bangkok và thuật ngữ “Việt Nam hóa” này được hình thành ít nhất là từ năm 2005. Điều tương tự cũng diễn ra ở tỉnh Sóc Trăng thuộc miền Nam Việt Nam khi người Việt gọi một ngôi chùa Nam tông Khmer là “Chùa Bốn Mặt”.
Phần lớn người Việt Nam chịu ảnh hưởng Phật giáo Bắc tông (Mahayana Buddhism) và có xu hướng đồng hóa những vị thần ngoài Phật giáo thành Phật. Thần Maha Phra Phrom là niềm tin mới đối với người Việt Nam, nên khi thấy người Thái đến chiêm bái nhiều ở miếu Erawan thì người Việt Nam cũng cho rằng đó là tượng Phật. Do hình dáng của thần Phra Phrom có bốn mặt, người Việt Nam bèn gọi là “Phật Bốn Mặt” hay “Tứ Diện Phật”. Đối với người Việt Nam ở Thành phố Hồ Chí Minh thì pháp danh “Phật Bốn Mặt” hay “Tứ Diện Phật” chính là tên gọi dành cho tượng thần Phra Phrom ở ngôi miếu Erawan nằm tại giao lộ Jajprasong - Bangkok và thuật ngữ “Việt Nam hóa” này được hình thành ít nhất là từ năm 2005. Điều tương tự cũng diễn ra ở tỉnh Sóc Trăng thuộc miền Nam Việt Nam khi người Việt gọi một ngôi chùa Nam tông Khmer là “Chùa Bốn Mặt”.

Bàn thờ thần Phra Phrom tại công ty của một doanh nhân người Việt gốc Hoa. Bàn thờ do thợ Khmer Nam Bộ thiết kế, cách bày trí theo tín ngưỡng Việt Nam. Ảnh: Phan Anh Tú

Pho tượng Nang Kwak của một doanh nghiệp gỗ ở Bình Phước thỉnh từ Thái Lan về, hiện bỏ lại tại chùa Nam tông Khmer ở thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Phan Anh Tú
Trong phạm vi của văn hóa Phật giáo thì người Việt Nam gần gũi với niềm tin của người Trung Hoa hơn là người Ấn Độ và Thái Lan. Chính vì thế mà những tên gọi của thần Sáng tạo theo kiểu Ấn Độ là Brahma, theo kiểu Thái Lan là Maha Phrarom, Phra Phrom hoặc như theo kiểu Khmer Nam Bộ là Phra Phrum sẽ làm cho người Việt Nam gặp khó khăn khi phát âm và rất khó nhớ nên khi phật tử mang tượng về làm lễ ở chùa thì các nhà sư Khmer cũng dùng pháp danh trong kinh Phật của Trung Hoa là Phạm Thiên hay Đế Thiên để chỉ thần Brahma của Ấn Độ. Hơn nữa ở thành phố Hồ Chí Minh chỉ có hai ngôi chùa Khmer Nam Bộ làm nghi lễ cho các tượng thần từ Thái Lan nhập về, nên chắc chắn có sự thống nhất về mặt nghi lễ và cách gọi tên của thần Maha Phra Phrom.
Qua phỏng vấn những người Việt, người Hoa thờ tượng Nang Kwak cho thấy về tên gọi, hiếm có người nào biết được nguồn gốc và tên gọi chính xác của vị nữ thần này. Thường thì người Việt Nam gọi theo tên thần đã được Việt hóa là Bà Ngoắc. Phần nhiều những người thờ Kwak cho biết thấy Bà rất thiêng nên thờ để gặp may nhưng cũng có người biết Nang Kwak có nguồn gốc từ Thái Lan là nữ thần Tài lộc nên thờ.
Khác với sự sùng bái Nang Kwak của người Việt, người Khmer Nam Bộ dường như cảm thấy rất xa lạ với tín ngưỡng thờ Kwak mặc dù họ cùng theo hệ phái Phật giáo Nam tông như người Thái Lan. Khảo sát của tôi cho thấy chỉ có một số nhỏ người Khmer bán hàng rong hay nước mía tại thành phố Trà Vinh có đặt tượng Nang Kwak nhỏ xíu trên chiếc xe hàng hay xe nước mía của họ. Xem ra cách thờ cúng như vậy rất giống với truyền thuyết ban đầu về nguồn gốc nàng Supawadee (Nang Kwak) trên đất Ấn Độ. Người Khmer Nam Bộ thường không đủ khả năng tài chính để mở những cửa buôn bán tại các thành phố. Việc thờ Nang Kwak được người Khmer Nam Bộ gọi là Niềng Bok - Niềng Boi (នាងបក់ នាងបោយ). Những người bán hàng nhỏ lẻ ở thành phố Trà Vinh thờ Kwak là do chịu ảnh hưởng từ người Việt và người Hoa mà họ tiếp xúc được.
Kết luận
Trong thời kỳ khu vực hóa mạnh mẽ như giai đoạn hiện nay, ảnh hưởng của văn hóa Thái Lan vào Việt Nam đang phát triển mạnh, nhất là trong lĩnh vực kiến trúc và ẩm thực. Những biệt thự ở miền Tây Nam Bộ thường được xây theo mẫu hình kiến trúc Thái Lan với mái nhà nhiều lớp vươn cao lên bầu trời. Người Việt Nam vẫn gọi là nhà kiểu Thái Lan hay mái nhà kiểu Thái, biệt thự kiểu Thái Lan. Các loại tranh vẽ của Phật giáo Thái Lan rất được người Việt Nam ưa chuộng trong thờ cúng. Trong ẩm thực, nhiều món ăn Thái đang trở nên quen thuộc với người Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh. Về phương diện tôn giáo, việc tiếp nhận loại hình thờ cúng Phra Phrom và Nang Kwak của Thái Lan không phát triển mạnh như những lĩnh khác. Dường như loại hình thờ cúng mới này chỉ đáp ứng nhu cầu tâm linh của những người Việt Nam đang tham gia lĩnh vực kinh tế, thương mại bằng nhiều hình thức khác nhau. Có thể nói, thờ cúng Phra Phrom và Nang Kwak thuộc dạng niềm tin thương mại, đáp ứng nhu cầu của những người buôn bán ở thành phố hay thị trấn. Mặc dù một số ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer ở Nam Bộ có thực hiện lễ hô thần nhập tượng, an vị tượng Phra Phrom và Nang Kwak nhưng loại hình thờ cúng này lại không phổ biến trong cộng đồng người Khmer ở Nam Bộ do những đặc điểm của nền văn hóa truyền thống Khmer. Tại các chùa Nam tông Khmer ở Thành phố Hồ Chí Minh tuy có bày bán tượng Phật, nhất là tượng Phật Thái Lan, nhưng không thấy có tượng thần Phra Phrom và Nang Kwak kiểu Thái Lan. Sự tiếp biến văn hóa này trong bối cảnh hội nhập chắc chắn sẽ còn diễn ra sâu đậm hơn/.
Chú thích
[1] Brahma là một trong ba đại thần linh Bà La Môn giáo chủ quản ngôi Sáng tạo cùng với thần Vishnu (ngôi bảo tồn) và Shiva (ngôi hủy diệt).
[2] Lễ mừng năm mới của các dân tộc Khmer, Thái, Lào và Myanmar diễn ra từ ngày 10 – 14 tháng 04 tính theo Dương lịch.
[3] Theo bài viết Erawan Shine trên website: http://www.eugenegoesthailand.com/?p=649
[4] Bài viết đăng trên web: http://www.buddhamagic.net/nang-kwak-deity-of-merchants/
[5] Trích dẫn theo bài viết Nang Kwak, Deity of Merchants từ nguồn http://www.buddhamagic.net/nang-kwak-deity-of-merchants/
Tài liệu tham khảo
1.Cao Huy Đỉnh 2003. Tìm hiểu văn hóa Ấn Độ (tác phẩm được giải thưởng Hồ Chí Minh), KHXH, Hà Nội.
2. Chân Nguyên và Nguyễn Tường Bách 1999. Tự điển Phật học, NXB. Thuận Hóa, Huế.
3. Chevalier Jean 1997. Tự điển biểu tượng văn hóa thế giới, NXB. Đà nẳng.
4. Durant Will 2002. Lịch sử văn minh Ấn Độ (Nguyễn Hiến Lê dịch), NXB. Văn hóa Thông tin.
5. Geetesh Sharma 2012. Những dấu vết văn hóa Ấn Độ tại Việt Nam (Thích Minh Trí dịch). NXB. Văn hóa Nghệ thuật TP. HCM.
6. Lê Hương 1969. Người Việt gốc Miên, NXB. Thanh niên, Sài Gòn
7. Ngọc Anh 2002. Các hình thức thờ cúng của bộ lạc, NXB. Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
8. Ngô Đức Thịnh 1998. “Cái nhìn mới của các nhà nghiên cứu tôn giáo hiện nay”, Báo Thể thao văn hoá ngày 11-12.
9. Phan Anh Tú 2004. “Truyền thuyết về rắn Naga trong văn hóa Khơ-me”, Tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 71, tháng 10, tr. 02 – 04.
10. Phan Anh Tú 2005. “Hình tượng rắn Naga trong văn hóa Ấn Độ giáo”, Tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 80 (2), tháng 7, tr. 13 – 16.
11. Phan Anh Tú 2005. “Nghệ thuật điêu khắc cổ Đông Dương”, Tạp chí Xưa Nay, số 238, tháng 06, tr. 55 - 60.
12. Phan Anh Tú 2006. “Quan hệ giữa sử thi Phả Đeng Nang Ay và truyền thuyết Pháya khăn khác (chúa Cóc) với lễ hội Bun Băng Phay của người Lào”, Kỷ yếu Hội thảo văn học Lào tháng 12, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, tr 36 - 42.
13. Phan Anh Tú 2007. “Brahma, thần cai quản vong hồn cô độc ở Thái Lan”. http://tuoitre.vn/tin/tuoi-tre-cuoi-tuan/20071214
14. Phan Anh Tú 2013. “Điêu khắc Hộ thế Bát phương thiên (Dikpalaka) từ Ấn Độ đến Đông Nam Á”, Tạp chí Khoa học xã hội, số 10 (180).
15. Phan Anh Tú 2014. “Những hình tượng thần linh Bà La Môn giáo trong giai đoạn đầu của điêu khắc Champa”. Kỷ yếu HTKH Việt Nam - Ấn Độ nằm 2013 Dấu ấn Ấn Độ trong tiếp biến văn hóa ở Việt Nam và Đông Nam Á. NXB. Đại học Quốc gia TP. HCM
16. Phan Anh Tú 2014. “Ứng xử với môi trường tự nhiên cùa người Khmer ở Nam Bộ: Nhìn từ sinh thái học Phật giáo”, Nghiên cứu tôn giáo, số 05 (131), 2014
17. Phan Anh Tú 2014. “Về một số đặc trưng của các tượng thần Bà La Môn giáo trong sưu tập điêu khắc đá Champa và hậu Óc Eo ở Bảo tàng lịch sử Việt Nam – TP. HCM”. Những vấn đề KHXH và NV (chuyên đề: Văn hóa học), NXB. Đại học Quốc gia
18. Phan Anh Tú 2015. “Hình tượng Kày-no-ray trong văn hóa Khmer Nam Bộ, những tương đồng trong văn hóa Đông Nam Á lục địa”, Tạp chí khoa học: Văn hóa và du lịch số 22-23 (76) tháng 05.
19. Phan Anh Tú 2015. “The Shiva Image in Champa Iconography”, Dialogue Quarterly (India) no 16 2005
20. Phan Thị Yến Tuyết 2010. “Tâm thức ứng xử với nước của người Khmer qua lễ hội Ok Angbok – tiếp cận sinh thái văn hóa”, Tờ tin khoa học – Đại học Trà Vinh số 07, tháng 02 năm 2010.
21. Phan Thị Yến Tuyết 2012. “Tâm thức ứng xử với biển của người Khmer Nam Bộ qua lễ hội Phước Biển (Chroi Rumchek) – tiếp cận sinh thái văn hóa”, tạp chí khoa học xã hội, viện phát triển bền vững vùng Nam Bộ, tháng 04 năm 2012.
22. Reid Anthony 2008. “Các vùng đất bên dưới luồng gió thổi” (Ngô Bắc dịch), website: Gio O. org.
23. Trần Kỳ Phương 2001. “Phù điêu Hộ thế bát phương thiên của đế chóp tháp Vân Trạch Hòa và hình tượng Hộ thế bát phương thiên trong điêu khắc Champa”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ số 3 (33), tr. 84 – 98, Sở KHCN và MT tỉnh Thừa Thiên Huế.
24. Viện văn hóa 1993. Văn hóa người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long. - NXB. Văn hóa Dân tộc
Qua phỏng vấn những người Việt, người Hoa thờ tượng Nang Kwak cho thấy về tên gọi, hiếm có người nào biết được nguồn gốc và tên gọi chính xác của vị nữ thần này. Thường thì người Việt Nam gọi theo tên thần đã được Việt hóa là Bà Ngoắc. Phần nhiều những người thờ Kwak cho biết thấy Bà rất thiêng nên thờ để gặp may nhưng cũng có người biết Nang Kwak có nguồn gốc từ Thái Lan là nữ thần Tài lộc nên thờ.
Khác với sự sùng bái Nang Kwak của người Việt, người Khmer Nam Bộ dường như cảm thấy rất xa lạ với tín ngưỡng thờ Kwak mặc dù họ cùng theo hệ phái Phật giáo Nam tông như người Thái Lan. Khảo sát của tôi cho thấy chỉ có một số nhỏ người Khmer bán hàng rong hay nước mía tại thành phố Trà Vinh có đặt tượng Nang Kwak nhỏ xíu trên chiếc xe hàng hay xe nước mía của họ. Xem ra cách thờ cúng như vậy rất giống với truyền thuyết ban đầu về nguồn gốc nàng Supawadee (Nang Kwak) trên đất Ấn Độ. Người Khmer Nam Bộ thường không đủ khả năng tài chính để mở những cửa buôn bán tại các thành phố. Việc thờ Nang Kwak được người Khmer Nam Bộ gọi là Niềng Bok - Niềng Boi (នាងបក់ នាងបោយ). Những người bán hàng nhỏ lẻ ở thành phố Trà Vinh thờ Kwak là do chịu ảnh hưởng từ người Việt và người Hoa mà họ tiếp xúc được.
Kết luận
Trong thời kỳ khu vực hóa mạnh mẽ như giai đoạn hiện nay, ảnh hưởng của văn hóa Thái Lan vào Việt Nam đang phát triển mạnh, nhất là trong lĩnh vực kiến trúc và ẩm thực. Những biệt thự ở miền Tây Nam Bộ thường được xây theo mẫu hình kiến trúc Thái Lan với mái nhà nhiều lớp vươn cao lên bầu trời. Người Việt Nam vẫn gọi là nhà kiểu Thái Lan hay mái nhà kiểu Thái, biệt thự kiểu Thái Lan. Các loại tranh vẽ của Phật giáo Thái Lan rất được người Việt Nam ưa chuộng trong thờ cúng. Trong ẩm thực, nhiều món ăn Thái đang trở nên quen thuộc với người Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh. Về phương diện tôn giáo, việc tiếp nhận loại hình thờ cúng Phra Phrom và Nang Kwak của Thái Lan không phát triển mạnh như những lĩnh khác. Dường như loại hình thờ cúng mới này chỉ đáp ứng nhu cầu tâm linh của những người Việt Nam đang tham gia lĩnh vực kinh tế, thương mại bằng nhiều hình thức khác nhau. Có thể nói, thờ cúng Phra Phrom và Nang Kwak thuộc dạng niềm tin thương mại, đáp ứng nhu cầu của những người buôn bán ở thành phố hay thị trấn. Mặc dù một số ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer ở Nam Bộ có thực hiện lễ hô thần nhập tượng, an vị tượng Phra Phrom và Nang Kwak nhưng loại hình thờ cúng này lại không phổ biến trong cộng đồng người Khmer ở Nam Bộ do những đặc điểm của nền văn hóa truyền thống Khmer. Tại các chùa Nam tông Khmer ở Thành phố Hồ Chí Minh tuy có bày bán tượng Phật, nhất là tượng Phật Thái Lan, nhưng không thấy có tượng thần Phra Phrom và Nang Kwak kiểu Thái Lan. Sự tiếp biến văn hóa này trong bối cảnh hội nhập chắc chắn sẽ còn diễn ra sâu đậm hơn/.
Chú thích
[1] Brahma là một trong ba đại thần linh Bà La Môn giáo chủ quản ngôi Sáng tạo cùng với thần Vishnu (ngôi bảo tồn) và Shiva (ngôi hủy diệt).
[2] Lễ mừng năm mới của các dân tộc Khmer, Thái, Lào và Myanmar diễn ra từ ngày 10 – 14 tháng 04 tính theo Dương lịch.
[3] Theo bài viết Erawan Shine trên website: http://www.eugenegoesthailand.com/?p=649
[4] Bài viết đăng trên web: http://www.buddhamagic.net/nang-kwak-deity-of-merchants/
[5] Trích dẫn theo bài viết Nang Kwak, Deity of Merchants từ nguồn http://www.buddhamagic.net/nang-kwak-deity-of-merchants/
Tài liệu tham khảo
1.Cao Huy Đỉnh 2003. Tìm hiểu văn hóa Ấn Độ (tác phẩm được giải thưởng Hồ Chí Minh), KHXH, Hà Nội.
2. Chân Nguyên và Nguyễn Tường Bách 1999. Tự điển Phật học, NXB. Thuận Hóa, Huế.
3. Chevalier Jean 1997. Tự điển biểu tượng văn hóa thế giới, NXB. Đà nẳng.
4. Durant Will 2002. Lịch sử văn minh Ấn Độ (Nguyễn Hiến Lê dịch), NXB. Văn hóa Thông tin.
5. Geetesh Sharma 2012. Những dấu vết văn hóa Ấn Độ tại Việt Nam (Thích Minh Trí dịch). NXB. Văn hóa Nghệ thuật TP. HCM.
6. Lê Hương 1969. Người Việt gốc Miên, NXB. Thanh niên, Sài Gòn
7. Ngọc Anh 2002. Các hình thức thờ cúng của bộ lạc, NXB. Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
8. Ngô Đức Thịnh 1998. “Cái nhìn mới của các nhà nghiên cứu tôn giáo hiện nay”, Báo Thể thao văn hoá ngày 11-12.
9. Phan Anh Tú 2004. “Truyền thuyết về rắn Naga trong văn hóa Khơ-me”, Tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 71, tháng 10, tr. 02 – 04.
10. Phan Anh Tú 2005. “Hình tượng rắn Naga trong văn hóa Ấn Độ giáo”, Tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 80 (2), tháng 7, tr. 13 – 16.
11. Phan Anh Tú 2005. “Nghệ thuật điêu khắc cổ Đông Dương”, Tạp chí Xưa Nay, số 238, tháng 06, tr. 55 - 60.
12. Phan Anh Tú 2006. “Quan hệ giữa sử thi Phả Đeng Nang Ay và truyền thuyết Pháya khăn khác (chúa Cóc) với lễ hội Bun Băng Phay của người Lào”, Kỷ yếu Hội thảo văn học Lào tháng 12, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, tr 36 - 42.
13. Phan Anh Tú 2007. “Brahma, thần cai quản vong hồn cô độc ở Thái Lan”. http://tuoitre.vn/tin/tuoi-tre-cuoi-tuan/20071214
14. Phan Anh Tú 2013. “Điêu khắc Hộ thế Bát phương thiên (Dikpalaka) từ Ấn Độ đến Đông Nam Á”, Tạp chí Khoa học xã hội, số 10 (180).
15. Phan Anh Tú 2014. “Những hình tượng thần linh Bà La Môn giáo trong giai đoạn đầu của điêu khắc Champa”. Kỷ yếu HTKH Việt Nam - Ấn Độ nằm 2013 Dấu ấn Ấn Độ trong tiếp biến văn hóa ở Việt Nam và Đông Nam Á. NXB. Đại học Quốc gia TP. HCM
16. Phan Anh Tú 2014. “Ứng xử với môi trường tự nhiên cùa người Khmer ở Nam Bộ: Nhìn từ sinh thái học Phật giáo”, Nghiên cứu tôn giáo, số 05 (131), 2014
17. Phan Anh Tú 2014. “Về một số đặc trưng của các tượng thần Bà La Môn giáo trong sưu tập điêu khắc đá Champa và hậu Óc Eo ở Bảo tàng lịch sử Việt Nam – TP. HCM”. Những vấn đề KHXH và NV (chuyên đề: Văn hóa học), NXB. Đại học Quốc gia
18. Phan Anh Tú 2015. “Hình tượng Kày-no-ray trong văn hóa Khmer Nam Bộ, những tương đồng trong văn hóa Đông Nam Á lục địa”, Tạp chí khoa học: Văn hóa và du lịch số 22-23 (76) tháng 05.
19. Phan Anh Tú 2015. “The Shiva Image in Champa Iconography”, Dialogue Quarterly (India) no 16 2005
20. Phan Thị Yến Tuyết 2010. “Tâm thức ứng xử với nước của người Khmer qua lễ hội Ok Angbok – tiếp cận sinh thái văn hóa”, Tờ tin khoa học – Đại học Trà Vinh số 07, tháng 02 năm 2010.
21. Phan Thị Yến Tuyết 2012. “Tâm thức ứng xử với biển của người Khmer Nam Bộ qua lễ hội Phước Biển (Chroi Rumchek) – tiếp cận sinh thái văn hóa”, tạp chí khoa học xã hội, viện phát triển bền vững vùng Nam Bộ, tháng 04 năm 2012.
22. Reid Anthony 2008. “Các vùng đất bên dưới luồng gió thổi” (Ngô Bắc dịch), website: Gio O. org.
23. Trần Kỳ Phương 2001. “Phù điêu Hộ thế bát phương thiên của đế chóp tháp Vân Trạch Hòa và hình tượng Hộ thế bát phương thiên trong điêu khắc Champa”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ số 3 (33), tr. 84 – 98, Sở KHCN và MT tỉnh Thừa Thiên Huế.
24. Viện văn hóa 1993. Văn hóa người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long. - NXB. Văn hóa Dân tộc
TS. Phan Anh Tú
Đã đăng: Nghiên cứu Tôn giáo số 07 (145), 2015, 07 -98
Vui lòng gõ tiếng việt có dấu