Thứ Tư 10 Tháng Sáu 2015 - 05:16:24 CH
Đức Phật là Thầy chỉ đường
GN - Đức Phật dạy: “Hãy tự xem con là hải đảo của con, hãy tự xem con là nơi nương tựa của con. Không nên tìm nương tựa nơi ai khác” (Trường A-hàm, kinh Đại bát Niết-bàn), và Ngài cũng nói rõ: “Các con phải tự mình nỗ lực. Các đấng Như Lai chỉ là đạo sư” (Kinh Pháp cú, kệ 276).
Tuy nhiên, lắm lúc chúng ta quên điều đó. Thay vì quyết tâm làm theo lời Phật dạy do ngưỡng mộ Ngài và tin tưởng tuyệt đối nơi giáo pháp của Ngài, thì chúng ta lại sùng bái Ngài như một vị thần linh tối thượng.
Đức Phật là người hướng đạo, là người chỉ đường, còn đến đích,
đạt được mục tiêu hay không, sớm hay muộn là do chúng ta
Đức Phật chưa bao giờ cho rằng Ngài là thần linh hay Thượng đế, hoặc hơn thế nữa. Ngài chưa bao giờ bảo Ngài có quyền năng ban phước cho những ai kính tin Ngài, sùng bái Ngài, và giáng tai họa đến những ai không kính tin, không sùng bái Ngài. Đức Phật cho biết Ngài chỉ là người tìm ra chân lý và dẫn đường cho chúng sinh đến với chân lý đó; Ngài là người đã thoát khổ và chỉ cho chúng sinh biết phương pháp thoát khổ đó. Có thấy được chân lý hay không, có thoát khổ hay không, tất cả hoàn toàn tùy thuộc vào sự nỗ lực của mỗi cá nhân.
Đức Phật không thể làm cho chúng sinh này thoát khổ, khiến cho chúng sinh kia giải thoát, giúp chúng sinh nọ được an vui. Ngài chỉ có thể nói cho chúng sinh biết làm thế nào để thoát khổ, làm thế nào để được an vui; Ngài dạy cho chúng sinh biết con đường để chứng ngộ chân lý. Tóm lại, như Đức Phật đã nói, Ngài chỉ là bậc Đạo sư, vị Thầy chỉ đường.Đức Phật là người hướng đạo, là người chỉ đường, còn đến đích, đạt được mục tiêu hay không, sớm hay muộn là do chúng ta, chúng ta có chịu đi hay không, chúng ta đi mau hay chậm.
Đức Phật dạy về Nhân quả, Nghiệp báo, Duyên sinh, Vô thường, Vô ngã, chỉ rõ bản chất của đời sống. Đức Phật dạy về Tứ đế, Bát chánh đạo, chỉ rõ nguyên nhân của khổ, phương pháp diệt khổ và an lạc hạnh phúc có được sau khi đoạn tận nguyên nhân của khổ. Nhưng đôi khi chúng ta không quan tâm, không nhớ những lời dạy của Ngài, không đi theo sự chỉ đường của Ngài để có được những gì mình mong muốn, mà chúng ta lại chạy theo những ảo tưởng mê lầm, niềm tin mù quáng, chúng ta làm theo cảm tính, đến với Ngài bằng niềm tin và những hành động mê lầm.
Đức Phật khẳng định chúng ta là hải đảo tự thân, là nơi nương tựa của chính mình. Ngài dạy chúng ta đừng tìm cầu nương tựa nơi ai khác, kể cả Ngài. Đức Phật dạy chúng ta chính là người bảo hộ cho mình, không ai có thể bảo hộ chúng ta ngoài chúng ta. “Chính các ngươi là kẻ bảo hộ cho các ngươi, chính các ngươi là nơi nương tựa cho các ngươi” (Kinh Pháp cú, kệ 380). Tuy nhiên chúng ta lại không có lòng tin nơi chính mình, không đủ sáng suốt và lòng kiên định để tin tưởng và mạnh dạn thực hành lời Đức Phật dạy, đi trên con đường mà Ngài đã vạch ra hướng chúng ta đến an vui, hạnh phúc.
Khi gặp khó khăn, bất hạnh, khi đối mặt với những biến cố cuộc đời, do lúc bình thường không có sự rèn luyện và tu tập, không học và thực hành lời Đức Phật dạy nên chúng ta hoảng loạn, cuống cuồng chạy tìm nơi nương tựa, tìm nơi bảo vệ mình. Thay vì đến chùa cầu đạo, tìm phương pháp tu tập chuyển hóa khổ đau, thay đổi bản thân và hoàn cảnh để có được an lạc, hạnh phúc, chúng ta lại đến chùa cầu khẩn, xin phép mầu, cúng giải hạn; tụng kinh, trì chú cốt để cầu sự bảo hộ nơi các vị Bồ-tát, thiện thần.
Thế nhưng, “Dù xem hết kinh A Di Đà, niệm suốt chú Đại bi, thì trồng dưa vẫn được dưa, trồng đậu vẫn được đậu. Kinh chú vốn từ bi, oan kết làm sao cứu? Soi xét lại tâm mình xưa nay, ai làm thì người ấy chịu” (Tế Điên Hòa thượng cảnh thế văn). Bởi vì sự báo ứng của việc thiện ác như bóng theo hình, nhân quả trong ba đời xoay quanh chẳng mất (Kinh Niết-bàn).
Hễ gieo nhân thì sớm muộn gì cũng gặt quả, gieo nhân thiện thì gặt quả lành trong đời này hoặc đời sau, gieo nhân bất thiện thì gặt quả khổ ở tương lai hoặc ngay trong hiện tại. Hành động tốt hay xấu, thiện hay bất thiện đều từ tâm mà sinh ra, cho nên phải thường quán chiếu, soi xét tâm mình, đừng để tâm chạy theo những điều xấu xa, tội lỗi, phải luôn giữ tâm trong sạch, hướng tâm đến những điều chân chánh, thiện lành.
Khi tâm được giữ trong sạch, khi tâm đã hướng thượng thì hành vi của bản thân trở nên thánh thiện, lời nói và việc làm của chúng ta đưa đến những kết quả tốt đẹp, đó là phản ứng của hành động theo quy luật nhân quả. Dù chúng ta không mong muốn, nó cũng diễn ra như vậy. Còn khi chúng ta gieo nhân bất thiện bằng những suy nghĩ, lời nói, hành động xấu, ác có hại cho mình, cho người, hoặc có hại cho cả hai thì dù không muốn nhận lãnh quả báo xấu, sớm hay muộn quả báo xấu cũng sẽ đến.
Trong kinh Pháp cú (kệ 1, 2), Đức Phật dạy: “Trong các pháp (các hiện tượng, sự vật), tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm (bất thiện…), thì sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo; Nếu nói hoặc làm với tâm thanh tịnh, thì sự vui sẽ theo nghiệp kéo đến như bóng theo hình”.
Muốn đuợc an vui hạnh phúc thì phải tránh xa điều ác, bất thiện, phải làm nhiều điều lành, điều thiện. Muốn thoát khổ thì phải chuyển hóa tâm (ăn năn sám hối những lỗi lầm, tội nghiệp đã tạo trong quá khứ: những đời trước hoặc quá khứ đời này; tích cực gieo trồng nhân duyên thiện lành, thực hành lời Phật dạy, tu tập ba nghiệp thân, khẩu, ý). Không có Phật, Bồ-tát hay bất cứ thần linh nào có năng lực giải nghiệp, giải khổ cho chúng ta, bởi vì các Ngài không thể làm trái luật nhân quả.
Nếu Phật, Bồ-tát, thần linh có thể giải nghiệp, giải khổ cho chúng sinh thì Đức Phật đâu cần nhọc công mở ra nhiều phương tiện, dạy nhiều pháp môn tu tập chuyển hóa, nói hàng ngàn bài kinh để chỉ cho chúng sinh cách thoát khổ và có được an vui hạnh phúc.
Nếu Phật, Bồ-tát, thần linh có thể giải nghiệp, giải khổ cho chúng sinh thì với lòng từ bi, các Ngài đã độ cho tất cả chúng sinh thoát khổ, độ cho tất cả chúng sinh thành Phật, chứng nhập Niết-bàn lâu rồi, đâu còn cảnh chúng sinh nheo nhóc hụp lặn trong biển khổ sinh tử luân hồi. Chính vì mỗi chúng sinh phải tự mình giải khổ cho mình bằng cách tu tập chuyển hóa chứ không một ai có thể làm thay thế, cho nên cho tới hôm nay vẫn còn chúng sinh luân hồi trong lục đạo, chư Phật, Bồ-tát vẫn còn phải thị hiện Ta-bà để giáo hóa, chỉ đường. Là Phật tử có chánh kiến và chánh tín, chúng ta lạy Phật là vì kính đức từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha, công hạnh lợi sinh rộng lớn của Phật. Niệm Phật là ghi nhớ công hạnh, ơn đức của Phật, xem Phật là tấm gương sáng để học tập, noi theo. Đọc tụng kinh điển là ôn lại lời Phật dạy, nghiên cứu, tìm hiểu nghĩa lý cao sâu để áp dụng vào đời sống, tu tập chuyển hóa bản thân, làm lợi ích cho mình và nhân quần, xã hội.
Lễ lạy Đức Phật, niệm danh hiệu Phật, tụng kinh, trì chú cũng là phương tiện giúp nhiếp tâm định niệm, khiến cho tâm thanh tịnh, trong sáng, từ đó phát sinh trí tuệ. Khi làm chủ được tâm mình, tâm không còn bị ác duyên, các bất thiện pháp bên ngoài lôi kéo, dẫn dắt đồng thời trí tuệ phát sinh, thì chúng ta có thể giải quyết được các vấn đề khổ đau trong đời sống một cách hiệu quả.
Tuy nhiên, lắm lúc chúng ta quên điều đó. Thay vì quyết tâm làm theo lời Phật dạy do ngưỡng mộ Ngài và tin tưởng tuyệt đối nơi giáo pháp của Ngài, thì chúng ta lại sùng bái Ngài như một vị thần linh tối thượng.
Đức Phật là người hướng đạo, là người chỉ đường, còn đến đích,
đạt được mục tiêu hay không, sớm hay muộn là do chúng ta
Đức Phật chưa bao giờ cho rằng Ngài là thần linh hay Thượng đế, hoặc hơn thế nữa. Ngài chưa bao giờ bảo Ngài có quyền năng ban phước cho những ai kính tin Ngài, sùng bái Ngài, và giáng tai họa đến những ai không kính tin, không sùng bái Ngài. Đức Phật cho biết Ngài chỉ là người tìm ra chân lý và dẫn đường cho chúng sinh đến với chân lý đó; Ngài là người đã thoát khổ và chỉ cho chúng sinh biết phương pháp thoát khổ đó. Có thấy được chân lý hay không, có thoát khổ hay không, tất cả hoàn toàn tùy thuộc vào sự nỗ lực của mỗi cá nhân.
Đức Phật không thể làm cho chúng sinh này thoát khổ, khiến cho chúng sinh kia giải thoát, giúp chúng sinh nọ được an vui. Ngài chỉ có thể nói cho chúng sinh biết làm thế nào để thoát khổ, làm thế nào để được an vui; Ngài dạy cho chúng sinh biết con đường để chứng ngộ chân lý. Tóm lại, như Đức Phật đã nói, Ngài chỉ là bậc Đạo sư, vị Thầy chỉ đường.Đức Phật là người hướng đạo, là người chỉ đường, còn đến đích, đạt được mục tiêu hay không, sớm hay muộn là do chúng ta, chúng ta có chịu đi hay không, chúng ta đi mau hay chậm.
Đức Phật dạy về Nhân quả, Nghiệp báo, Duyên sinh, Vô thường, Vô ngã, chỉ rõ bản chất của đời sống. Đức Phật dạy về Tứ đế, Bát chánh đạo, chỉ rõ nguyên nhân của khổ, phương pháp diệt khổ và an lạc hạnh phúc có được sau khi đoạn tận nguyên nhân của khổ. Nhưng đôi khi chúng ta không quan tâm, không nhớ những lời dạy của Ngài, không đi theo sự chỉ đường của Ngài để có được những gì mình mong muốn, mà chúng ta lại chạy theo những ảo tưởng mê lầm, niềm tin mù quáng, chúng ta làm theo cảm tính, đến với Ngài bằng niềm tin và những hành động mê lầm.
Đức Phật khẳng định chúng ta là hải đảo tự thân, là nơi nương tựa của chính mình. Ngài dạy chúng ta đừng tìm cầu nương tựa nơi ai khác, kể cả Ngài. Đức Phật dạy chúng ta chính là người bảo hộ cho mình, không ai có thể bảo hộ chúng ta ngoài chúng ta. “Chính các ngươi là kẻ bảo hộ cho các ngươi, chính các ngươi là nơi nương tựa cho các ngươi” (Kinh Pháp cú, kệ 380). Tuy nhiên chúng ta lại không có lòng tin nơi chính mình, không đủ sáng suốt và lòng kiên định để tin tưởng và mạnh dạn thực hành lời Đức Phật dạy, đi trên con đường mà Ngài đã vạch ra hướng chúng ta đến an vui, hạnh phúc.
Khi gặp khó khăn, bất hạnh, khi đối mặt với những biến cố cuộc đời, do lúc bình thường không có sự rèn luyện và tu tập, không học và thực hành lời Đức Phật dạy nên chúng ta hoảng loạn, cuống cuồng chạy tìm nơi nương tựa, tìm nơi bảo vệ mình. Thay vì đến chùa cầu đạo, tìm phương pháp tu tập chuyển hóa khổ đau, thay đổi bản thân và hoàn cảnh để có được an lạc, hạnh phúc, chúng ta lại đến chùa cầu khẩn, xin phép mầu, cúng giải hạn; tụng kinh, trì chú cốt để cầu sự bảo hộ nơi các vị Bồ-tát, thiện thần.
Thế nhưng, “Dù xem hết kinh A Di Đà, niệm suốt chú Đại bi, thì trồng dưa vẫn được dưa, trồng đậu vẫn được đậu. Kinh chú vốn từ bi, oan kết làm sao cứu? Soi xét lại tâm mình xưa nay, ai làm thì người ấy chịu” (Tế Điên Hòa thượng cảnh thế văn). Bởi vì sự báo ứng của việc thiện ác như bóng theo hình, nhân quả trong ba đời xoay quanh chẳng mất (Kinh Niết-bàn).
Hễ gieo nhân thì sớm muộn gì cũng gặt quả, gieo nhân thiện thì gặt quả lành trong đời này hoặc đời sau, gieo nhân bất thiện thì gặt quả khổ ở tương lai hoặc ngay trong hiện tại. Hành động tốt hay xấu, thiện hay bất thiện đều từ tâm mà sinh ra, cho nên phải thường quán chiếu, soi xét tâm mình, đừng để tâm chạy theo những điều xấu xa, tội lỗi, phải luôn giữ tâm trong sạch, hướng tâm đến những điều chân chánh, thiện lành.
Khi tâm được giữ trong sạch, khi tâm đã hướng thượng thì hành vi của bản thân trở nên thánh thiện, lời nói và việc làm của chúng ta đưa đến những kết quả tốt đẹp, đó là phản ứng của hành động theo quy luật nhân quả. Dù chúng ta không mong muốn, nó cũng diễn ra như vậy. Còn khi chúng ta gieo nhân bất thiện bằng những suy nghĩ, lời nói, hành động xấu, ác có hại cho mình, cho người, hoặc có hại cho cả hai thì dù không muốn nhận lãnh quả báo xấu, sớm hay muộn quả báo xấu cũng sẽ đến.
Trong kinh Pháp cú (kệ 1, 2), Đức Phật dạy: “Trong các pháp (các hiện tượng, sự vật), tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm (bất thiện…), thì sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo; Nếu nói hoặc làm với tâm thanh tịnh, thì sự vui sẽ theo nghiệp kéo đến như bóng theo hình”.
Muốn đuợc an vui hạnh phúc thì phải tránh xa điều ác, bất thiện, phải làm nhiều điều lành, điều thiện. Muốn thoát khổ thì phải chuyển hóa tâm (ăn năn sám hối những lỗi lầm, tội nghiệp đã tạo trong quá khứ: những đời trước hoặc quá khứ đời này; tích cực gieo trồng nhân duyên thiện lành, thực hành lời Phật dạy, tu tập ba nghiệp thân, khẩu, ý). Không có Phật, Bồ-tát hay bất cứ thần linh nào có năng lực giải nghiệp, giải khổ cho chúng ta, bởi vì các Ngài không thể làm trái luật nhân quả.
Nếu Phật, Bồ-tát, thần linh có thể giải nghiệp, giải khổ cho chúng sinh thì Đức Phật đâu cần nhọc công mở ra nhiều phương tiện, dạy nhiều pháp môn tu tập chuyển hóa, nói hàng ngàn bài kinh để chỉ cho chúng sinh cách thoát khổ và có được an vui hạnh phúc.
Nếu Phật, Bồ-tát, thần linh có thể giải nghiệp, giải khổ cho chúng sinh thì với lòng từ bi, các Ngài đã độ cho tất cả chúng sinh thoát khổ, độ cho tất cả chúng sinh thành Phật, chứng nhập Niết-bàn lâu rồi, đâu còn cảnh chúng sinh nheo nhóc hụp lặn trong biển khổ sinh tử luân hồi. Chính vì mỗi chúng sinh phải tự mình giải khổ cho mình bằng cách tu tập chuyển hóa chứ không một ai có thể làm thay thế, cho nên cho tới hôm nay vẫn còn chúng sinh luân hồi trong lục đạo, chư Phật, Bồ-tát vẫn còn phải thị hiện Ta-bà để giáo hóa, chỉ đường. Là Phật tử có chánh kiến và chánh tín, chúng ta lạy Phật là vì kính đức từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha, công hạnh lợi sinh rộng lớn của Phật. Niệm Phật là ghi nhớ công hạnh, ơn đức của Phật, xem Phật là tấm gương sáng để học tập, noi theo. Đọc tụng kinh điển là ôn lại lời Phật dạy, nghiên cứu, tìm hiểu nghĩa lý cao sâu để áp dụng vào đời sống, tu tập chuyển hóa bản thân, làm lợi ích cho mình và nhân quần, xã hội.
Lễ lạy Đức Phật, niệm danh hiệu Phật, tụng kinh, trì chú cũng là phương tiện giúp nhiếp tâm định niệm, khiến cho tâm thanh tịnh, trong sáng, từ đó phát sinh trí tuệ. Khi làm chủ được tâm mình, tâm không còn bị ác duyên, các bất thiện pháp bên ngoài lôi kéo, dẫn dắt đồng thời trí tuệ phát sinh, thì chúng ta có thể giải quyết được các vấn đề khổ đau trong đời sống một cách hiệu quả.
Diệu Thể
Nguồn: giacngo.vn
Vui lòng gõ tiếng việt có dấu