Thứ Hai 17 Tháng Bảy 2017 - 09:37:30 CH
Bốn hệ tượng Hộ pháp trong các ngôi chùa Việt
GN - Trước khi nói đến các tượng Hộ pháp, xin nói sơ qua đồ thờ. Đồ thờ của người Việt đa dạng và phong phú. Chúng ta có thể phân loại chúng dựa trên cơ sở chiều dọc và chiều ngang của lịch sử. Từ đó tạm gọi đồ thờ là những vật được gán cho một yếu tố tâm linh nhất định nào đó, thông qua đồ thờ con người muốn biểu hiện lòng thành kính cũng như ước vọng của mình với các đấng thần Phật, các đấng thiêng liêng.
Ngoài các đồ thờ dưới dạng vật dạng, linh thú thì người Việt còn sáng tạo ra các tượng nhân dạng, các tượng này tùy theo hệ tư tưởng khác nhau mà có những biểu tượng mang ý nghĩa khác nhau.
Tượng Hộ Pháp tại chùa Thầy
Phật giáo du nhập vào nước ta rất lâu đời, và người Việt tiếp nhận Phật, tư tưởng Phật theo cách riêng của họ. Điều đó ta thấy rất rõ ở các ngôi chùa Việt trên khắp cả nước. Chùa Việt hoàn toàn không dành riêng cho Phật giáo, mà là nơi tích hợp rất nhiều thần Phật khác nhau và có cả những thần Phật là sản phẩm của tư duy nông nghiệp của người dân Việt cổ xưa. Chùa Việt sẵn sàng tiếp nhận các vị thần linh phi Phật. Điều đó đồng nghĩa với người Việt thờ Phật theo cách thế gian, chứ không phải dựa vào triết lý hàn lâm vốn có.
Trong cái tính dân dã ấy nó biểu hiện qua các đồ thờ, nhất là đồ thờ nhân dạng, các pho tượng thần Phật với những biểu tượng liên quan vừa gợi ý cho chúng sinh đi vào tâm đạo vừa mang ý thức trang nghiêm sùng kính, lễ nghi. Thông qua tượng, con người sẽ chiêm nghiệm được lẽ đạo và rút ra được bài học từ tư tưởng triết lý của nhà Phật. Trong bài viết ngắn này chúng tôi xin trình bày ý nghĩa của hệ tượng Hộ pháp trong các ngôi chùa Việt xưa và nay mà ta thường gặp.
Hộ pháp là gì? Hộ pháp là bảo hộ, hộ trì Chánh pháp. Tương truyền xa xưa kia Đức Phật từng phái bốn vị Đại Thanh văn, mười sáu vị La-hán đến để hộ trì Phật pháp. Bên cạnh các vị này còn có các vị là Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ Thiên Vương, thập nhị thần tướng, hai mươi tám bộ chúng, mười ba phiên thần, ba mươi sáu thần vương, mười tám thiện thần chốn già-lam, Long vương… nhân nghe Phật thuyết pháp mà nguyện hộ trì Phật pháp, những vị này đều được gọi là thần Hộ pháp. Họ có nhiệm vụ, trách nhiệm bảo hộ chúng sanh, độ đời, tiêu trừ mọi tai họa, hàng phục ma chướng… để tâm trong sạch mà hướng Phật.
Trong các ngôi chùa Việt thường không bao giờ đầy đủ các loại tượng này, mà thông thường chỉ tồn tại bốn loại hệ tượng, đó là: Vi Đà Bồ-tát và Tiêu Diện Đại sĩ; Khuyến thiện - Trừng ác; Tứ Thiên Vương và Bát bộ Kim cương.
Hệ thứ 1 - Vi Đà và Tiêu Diện Đại sĩ
Vi Đà còn gọi là Vi Đà thiên, vốn một vị thần của Bà-la-môn giáo. Vi Đà nguyên là vị thần chiến đấu, có sáu đầu mười hai tay, tay cầm cung tên, cưỡi trên lưng khổng tước. Phật giáo Đại thừa hấp thu vị thần này và biến thành vị thần ủng hộ chốn già-lam. Tương truyền khi Phật nhập Niết-bàn, có một con quỷ đến cướp mất một cái răng của Phật. Vi Đà cấp tốc đuổi theo lấy về. Trong chùa Việt, vị thần này được tạc với thân mang áo giáp, chắp tay, cầm bảo kiếm. Còn Tiêu Diện Đại sĩ, hay còn gọi là Tiêu Diện Đại Quỷ vương, là vua của loài ngạ quỷ. Có khuôn mặt đỏ, lửa bốc cháy, là vị thần nổi tiếng của Phật giáo. Và người ta cũng cho rằng vị thần này vốn là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ-tát. Hóa thân này với ý nghĩa là dùng hình tượng của cái ác để chế ngự cái ác. Các thế lực xấu khi gặp ngài thì hoảng sợ mà chạy ra hướng có ánh sáng, mà nơi có ánh sáng là sẽ được Phật cứu độ và cảm hóa. Trong dân gian, vào dịp Tết Trung nguyên người ta thường đến chùa bái vị này để cầu mong cho vong nhân của gia đình được trở về thọ thực cùng gia quyến.
Hệ thứ 2 - Khuyến thiện và Trừng ác
Trong các ngôi chùa Việt, hai vị này thường tạc to lớn hơn người thường và được bài trí ở tiền đường, gọi là tượng Khuyến thiện và Trừng ác. Tượng với thân hình vô cùng to lớn, trang phục như võ tướng, đầu đội mũ trụ, mặc áo giáp, thân thể vạm vỡ, ngồi trên sư tử, có sẵn khí giới để bảo vệ đạo pháp. Tượng Khuyến thiện thường tô mặt trắng, nét mặt thanh thản, đặt bên tay trái bàn thờ Phật tay cầm viên ngọc thiện tâm. Tượng Trừng ác thường được tô mặt đỏ, đặt bên tay phải bàn thờ Phật. Tượng có nét mặt thần giận dữ, lăm lăm vũ khí để trừng trị kẻ ác tâm như răn đe mọi người lánh xa con đường dẫn đến mọi cái ác xấu.
Tích hai vị này vốn từ Ấn Độ cổ xưa: “Nước Ca-bỉ-na có hai anh em hoàng tử tính cách trái ngược nhau. Ông em là Ma-pha-la tính rất độc ác, ham chơi, tham của. Trong khi ông anh là La-đắc lại rất hiền lành, luôn thương xót chúng sinh, đem hết ngân khố phát chẩn đến nỗi kho tàng rỗng tuếch, công quỹ quốc gia khánh kiệt. Khi vua cha biết, không nỡ trách mắng mà chỉ bảo: “Muốn nước hưng thịnh, các con hãy xuống Long cung xin ngọc Ma-ni bảo châu, ước gì được nấy”. Nghe lời vua cha, La-đắc ra biển, tìm xuống Long cung, xin được ngọc lên bờ. Ông em là Ma-pha-la nổi tính tham, đóng giả cướp, đâm anh mù mắt, đoạt ngọc đem về dâng vua. Nhưng từ đó Ma-ni bảo châu trở thành một hòn đá bình thường, không tỏa hào quang, mất hết phép mầu. Mù mắt, La-đắc lần mò dọc theo bờ biển tới nước Ba-la-lật xin trông coi vườn thượng uyển. Vốn thương muôn loài, La-đắc để cho chim thú tha hồ ăn quả trong vườn cấm. Chuyện tới tai vua, vua đòi La-đắc lên xử tội. Trước lúc bị hành hình, La-đắc đã kể lại cuộc đời mình. Vua nghi ngờ, hỏi: “Ngươi lấy gì để làm bằng?”. La-đắc tự tin thưa: “Nếu đúng, mắt tôi sẽ sáng lại”. Dứt lời, hai mắt La-đắc bừng sáng, cùng lúc ấy, ở nước Ca-bỉ-na ngọc Ma-ni cũng rực rỡ sắc màu. Sau đó La-đắc về nước, tha tội cho em, cả hai tu thành chính quả, được cưỡi sư tử - con vật tượng trưng cho trí tuệ và sức mạnh, mình mặc giáp trụ với ý nghĩa ngăn chặn những mũi tên của tham, sân, si, ái ố... Hai ông được tạc tượng thờ ở trong chùa, chuyên làm nhiệm vụ bảo vệ Phật pháp”.
Hệ thứ 3 - Tứ Đại Thiên Vương
Tứ Đại Thiên Vương còn được gọi là Hộ thế Tứ Thiên Vương, là bốn vị Thiên tướng thủ hộ Phật pháp, thuộc chư Thiên bộ trong Nhị thập thiên hoặc Thập nhị thiên của Phật giáo. Tương truyền Tứ Đại Thiên Vương cư trụ trên núi Tu-di, trấn giữ bốn phương Đông Nam Tây Bắc, cai quản hộ trì tứ châu đó là: Đông Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Cu Lô Châu.
Trong các ngôi chùa Việt thì Tứ Thiên Vương được thờ trong Thiên vương điện được đặt sau sơn môn, hoặc bốn góc của cửa tháp. Hình tướng của Tứ Đại Thiên Vương được tạc như sau: Đông phương Trì Quốc thiên hộ trì đất nước, bảo hộ chúng sanh. Cư trụ phía Đông núi Tu-di, mặc giáp trụ, nét mặt phẫn nộ, tay cầm đàn tỳ bà. Trì Quốc Thiên Vương biểu thị lòng từ bi, dùng âm nhạc để cảm hóa chúng sanh quy y Phật pháp. Chủ quản Đông phương Phất-đề-bà châu. Nam phương Tăng Trưởng thiên có năng lực hộ trì chúng sanh tăng trưởng thiện căn. Cư trụ ở phía Nam núi Tu-di, nét mặt giận dữ, mặc giáp trụ, tay cầm bảo kiếm bảo hộ Phật pháp không cho tà ác xâm phạm. Chủ quản Nam phương Diêm-phù-đề châu. Tây phương Quảng Mục thiên có thể dùng Thiên nhãn thanh tịnh quán sát thế giới hộ trì chúng sanh. Cư trụ phía Tây núi Tu-di, hiện tướng giận dữ, mặc giáp trụ, tay quấn con rắn. Chủ quản Tây phương Anh-da-ni châu. Bắc phương Đa Văn thiên từng bảo hộ đạo tràng của Như Lai, do đó được nghe Như Lai thuyết pháp nhiều. Cư trụ ở phía Bắc núi Tu-di, hiện tướng phẫn nộ, tay cầm bảo tháp, biểu thị phước đức đa văn, chế phục chúng ma, bảo hộ tài bảo của chúng sanh. Chủ quản Bắc phương Úc-đơn-việt châu… Tứ Đại Thiên Vương cùng Phạm Thiên và Thiên chúng thuộc cõi trời Dục giới, là những vị thần bảo hộ Phật pháp, cũng như hộ trì chúng sanh tu tập thiện pháp, tồi phá trừng phạt những kẻ tà ác bất thiện xâm hại Phật pháp.
Hệ thứ 4 - Bát bộ Kim cương
Bát bộ Kim cương là tám vị thần bảo hộ Phật pháp. Kim cương biểu hiện cho tâm trong sáng, không hủy hoại, kiên định trong tu hành hay hộ trì Phật pháp nên gọi là Kim cương Hộ pháp, mặc áo nhẫn nhục hay còn gọi là áo tùy hình chống lại ba mũi tên độc tham, sân, si. Theo kinh Phóng quang Bát-nhã thì bất cứ ai tu hạnh Bồ-tát trên đường thành Phật sẽ được thần Kim cương gìn giữ bảo vệ. Tượng Bát bộ Kim cương trong chùa Việt được tạo tác với tay cầm các binh khí khác như gươm, chùy, việt phủ.. Tám vị thần đó có tên là: Thanh Trừ Tai, Tích Độc Thần, Hoàng Tùy Cầu, Bạch Tịnh Thủy, Xích Thanh Hỏa, Định Trừ Tai, Tử Hiền Thần, Đại Thần Lực…
Nhìn chung các hệ tượng Hộ pháp trong chùa Việt thường chia làm hai loại là thiện thần và ác thần. Thiện là khuyến khích chúng sinh làm điều thiện, ác là trừng trị cái ác, cảm hóa cái ác đi đến cái thiện. Các Hộ pháp có một điểm chung là hộ trì Phật pháp không cho cái xấu cái ác trà trộn vào, giúp con người thanh tĩnh, từ bi, một tâm hướng Phật. Các tượng thường chế tác rất lớn với các tư thế nghiêm nghị, cương quyết, thể hiện sức mạnh mang tính siêu nhiên. Đầu đội mũ kim khôi, mình mặc giáp trụ để ngăn ngừa tam độc, nhờ đó mà giữ được cái tâm trong sáng và cương quyết như kim cương. Các tượng thường được đặt trên lưng con lân, tượng trưng cho sức mạnh trí tuệ. Vì chỉ có trí tuệ sáng suốt và cái tâm thanh tịnh thì mới loại trừ được ác nghiệp. Đó cũng là chân lý để đi tìm con đường giải thoát, mưu cầu hạnh phúc vĩnh viễn.
Trong cái tính dân dã ấy nó biểu hiện qua các đồ thờ, nhất là đồ thờ nhân dạng, các pho tượng thần Phật với những biểu tượng liên quan vừa gợi ý cho chúng sinh đi vào tâm đạo vừa mang ý thức trang nghiêm sùng kính, lễ nghi. Thông qua tượng, con người sẽ chiêm nghiệm được lẽ đạo và rút ra được bài học từ tư tưởng triết lý của nhà Phật. Trong bài viết ngắn này chúng tôi xin trình bày ý nghĩa của hệ tượng Hộ pháp trong các ngôi chùa Việt xưa và nay mà ta thường gặp.
Hộ pháp là gì? Hộ pháp là bảo hộ, hộ trì Chánh pháp. Tương truyền xa xưa kia Đức Phật từng phái bốn vị Đại Thanh văn, mười sáu vị La-hán đến để hộ trì Phật pháp. Bên cạnh các vị này còn có các vị là Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ Thiên Vương, thập nhị thần tướng, hai mươi tám bộ chúng, mười ba phiên thần, ba mươi sáu thần vương, mười tám thiện thần chốn già-lam, Long vương… nhân nghe Phật thuyết pháp mà nguyện hộ trì Phật pháp, những vị này đều được gọi là thần Hộ pháp. Họ có nhiệm vụ, trách nhiệm bảo hộ chúng sanh, độ đời, tiêu trừ mọi tai họa, hàng phục ma chướng… để tâm trong sạch mà hướng Phật.
Trong các ngôi chùa Việt thường không bao giờ đầy đủ các loại tượng này, mà thông thường chỉ tồn tại bốn loại hệ tượng, đó là: Vi Đà Bồ-tát và Tiêu Diện Đại sĩ; Khuyến thiện - Trừng ác; Tứ Thiên Vương và Bát bộ Kim cương.
Hệ thứ 1 - Vi Đà và Tiêu Diện Đại sĩ
Vi Đà còn gọi là Vi Đà thiên, vốn một vị thần của Bà-la-môn giáo. Vi Đà nguyên là vị thần chiến đấu, có sáu đầu mười hai tay, tay cầm cung tên, cưỡi trên lưng khổng tước. Phật giáo Đại thừa hấp thu vị thần này và biến thành vị thần ủng hộ chốn già-lam. Tương truyền khi Phật nhập Niết-bàn, có một con quỷ đến cướp mất một cái răng của Phật. Vi Đà cấp tốc đuổi theo lấy về. Trong chùa Việt, vị thần này được tạc với thân mang áo giáp, chắp tay, cầm bảo kiếm. Còn Tiêu Diện Đại sĩ, hay còn gọi là Tiêu Diện Đại Quỷ vương, là vua của loài ngạ quỷ. Có khuôn mặt đỏ, lửa bốc cháy, là vị thần nổi tiếng của Phật giáo. Và người ta cũng cho rằng vị thần này vốn là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ-tát. Hóa thân này với ý nghĩa là dùng hình tượng của cái ác để chế ngự cái ác. Các thế lực xấu khi gặp ngài thì hoảng sợ mà chạy ra hướng có ánh sáng, mà nơi có ánh sáng là sẽ được Phật cứu độ và cảm hóa. Trong dân gian, vào dịp Tết Trung nguyên người ta thường đến chùa bái vị này để cầu mong cho vong nhân của gia đình được trở về thọ thực cùng gia quyến.
Hệ thứ 2 - Khuyến thiện và Trừng ác
Trong các ngôi chùa Việt, hai vị này thường tạc to lớn hơn người thường và được bài trí ở tiền đường, gọi là tượng Khuyến thiện và Trừng ác. Tượng với thân hình vô cùng to lớn, trang phục như võ tướng, đầu đội mũ trụ, mặc áo giáp, thân thể vạm vỡ, ngồi trên sư tử, có sẵn khí giới để bảo vệ đạo pháp. Tượng Khuyến thiện thường tô mặt trắng, nét mặt thanh thản, đặt bên tay trái bàn thờ Phật tay cầm viên ngọc thiện tâm. Tượng Trừng ác thường được tô mặt đỏ, đặt bên tay phải bàn thờ Phật. Tượng có nét mặt thần giận dữ, lăm lăm vũ khí để trừng trị kẻ ác tâm như răn đe mọi người lánh xa con đường dẫn đến mọi cái ác xấu.
Tích hai vị này vốn từ Ấn Độ cổ xưa: “Nước Ca-bỉ-na có hai anh em hoàng tử tính cách trái ngược nhau. Ông em là Ma-pha-la tính rất độc ác, ham chơi, tham của. Trong khi ông anh là La-đắc lại rất hiền lành, luôn thương xót chúng sinh, đem hết ngân khố phát chẩn đến nỗi kho tàng rỗng tuếch, công quỹ quốc gia khánh kiệt. Khi vua cha biết, không nỡ trách mắng mà chỉ bảo: “Muốn nước hưng thịnh, các con hãy xuống Long cung xin ngọc Ma-ni bảo châu, ước gì được nấy”. Nghe lời vua cha, La-đắc ra biển, tìm xuống Long cung, xin được ngọc lên bờ. Ông em là Ma-pha-la nổi tính tham, đóng giả cướp, đâm anh mù mắt, đoạt ngọc đem về dâng vua. Nhưng từ đó Ma-ni bảo châu trở thành một hòn đá bình thường, không tỏa hào quang, mất hết phép mầu. Mù mắt, La-đắc lần mò dọc theo bờ biển tới nước Ba-la-lật xin trông coi vườn thượng uyển. Vốn thương muôn loài, La-đắc để cho chim thú tha hồ ăn quả trong vườn cấm. Chuyện tới tai vua, vua đòi La-đắc lên xử tội. Trước lúc bị hành hình, La-đắc đã kể lại cuộc đời mình. Vua nghi ngờ, hỏi: “Ngươi lấy gì để làm bằng?”. La-đắc tự tin thưa: “Nếu đúng, mắt tôi sẽ sáng lại”. Dứt lời, hai mắt La-đắc bừng sáng, cùng lúc ấy, ở nước Ca-bỉ-na ngọc Ma-ni cũng rực rỡ sắc màu. Sau đó La-đắc về nước, tha tội cho em, cả hai tu thành chính quả, được cưỡi sư tử - con vật tượng trưng cho trí tuệ và sức mạnh, mình mặc giáp trụ với ý nghĩa ngăn chặn những mũi tên của tham, sân, si, ái ố... Hai ông được tạc tượng thờ ở trong chùa, chuyên làm nhiệm vụ bảo vệ Phật pháp”.
Hệ thứ 3 - Tứ Đại Thiên Vương
Tứ Đại Thiên Vương còn được gọi là Hộ thế Tứ Thiên Vương, là bốn vị Thiên tướng thủ hộ Phật pháp, thuộc chư Thiên bộ trong Nhị thập thiên hoặc Thập nhị thiên của Phật giáo. Tương truyền Tứ Đại Thiên Vương cư trụ trên núi Tu-di, trấn giữ bốn phương Đông Nam Tây Bắc, cai quản hộ trì tứ châu đó là: Đông Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Cu Lô Châu.
Trong các ngôi chùa Việt thì Tứ Thiên Vương được thờ trong Thiên vương điện được đặt sau sơn môn, hoặc bốn góc của cửa tháp. Hình tướng của Tứ Đại Thiên Vương được tạc như sau: Đông phương Trì Quốc thiên hộ trì đất nước, bảo hộ chúng sanh. Cư trụ phía Đông núi Tu-di, mặc giáp trụ, nét mặt phẫn nộ, tay cầm đàn tỳ bà. Trì Quốc Thiên Vương biểu thị lòng từ bi, dùng âm nhạc để cảm hóa chúng sanh quy y Phật pháp. Chủ quản Đông phương Phất-đề-bà châu. Nam phương Tăng Trưởng thiên có năng lực hộ trì chúng sanh tăng trưởng thiện căn. Cư trụ ở phía Nam núi Tu-di, nét mặt giận dữ, mặc giáp trụ, tay cầm bảo kiếm bảo hộ Phật pháp không cho tà ác xâm phạm. Chủ quản Nam phương Diêm-phù-đề châu. Tây phương Quảng Mục thiên có thể dùng Thiên nhãn thanh tịnh quán sát thế giới hộ trì chúng sanh. Cư trụ phía Tây núi Tu-di, hiện tướng giận dữ, mặc giáp trụ, tay quấn con rắn. Chủ quản Tây phương Anh-da-ni châu. Bắc phương Đa Văn thiên từng bảo hộ đạo tràng của Như Lai, do đó được nghe Như Lai thuyết pháp nhiều. Cư trụ ở phía Bắc núi Tu-di, hiện tướng phẫn nộ, tay cầm bảo tháp, biểu thị phước đức đa văn, chế phục chúng ma, bảo hộ tài bảo của chúng sanh. Chủ quản Bắc phương Úc-đơn-việt châu… Tứ Đại Thiên Vương cùng Phạm Thiên và Thiên chúng thuộc cõi trời Dục giới, là những vị thần bảo hộ Phật pháp, cũng như hộ trì chúng sanh tu tập thiện pháp, tồi phá trừng phạt những kẻ tà ác bất thiện xâm hại Phật pháp.
Hệ thứ 4 - Bát bộ Kim cương
Bát bộ Kim cương là tám vị thần bảo hộ Phật pháp. Kim cương biểu hiện cho tâm trong sáng, không hủy hoại, kiên định trong tu hành hay hộ trì Phật pháp nên gọi là Kim cương Hộ pháp, mặc áo nhẫn nhục hay còn gọi là áo tùy hình chống lại ba mũi tên độc tham, sân, si. Theo kinh Phóng quang Bát-nhã thì bất cứ ai tu hạnh Bồ-tát trên đường thành Phật sẽ được thần Kim cương gìn giữ bảo vệ. Tượng Bát bộ Kim cương trong chùa Việt được tạo tác với tay cầm các binh khí khác như gươm, chùy, việt phủ.. Tám vị thần đó có tên là: Thanh Trừ Tai, Tích Độc Thần, Hoàng Tùy Cầu, Bạch Tịnh Thủy, Xích Thanh Hỏa, Định Trừ Tai, Tử Hiền Thần, Đại Thần Lực…
Nhìn chung các hệ tượng Hộ pháp trong chùa Việt thường chia làm hai loại là thiện thần và ác thần. Thiện là khuyến khích chúng sinh làm điều thiện, ác là trừng trị cái ác, cảm hóa cái ác đi đến cái thiện. Các Hộ pháp có một điểm chung là hộ trì Phật pháp không cho cái xấu cái ác trà trộn vào, giúp con người thanh tĩnh, từ bi, một tâm hướng Phật. Các tượng thường chế tác rất lớn với các tư thế nghiêm nghị, cương quyết, thể hiện sức mạnh mang tính siêu nhiên. Đầu đội mũ kim khôi, mình mặc giáp trụ để ngăn ngừa tam độc, nhờ đó mà giữ được cái tâm trong sáng và cương quyết như kim cương. Các tượng thường được đặt trên lưng con lân, tượng trưng cho sức mạnh trí tuệ. Vì chỉ có trí tuệ sáng suốt và cái tâm thanh tịnh thì mới loại trừ được ác nghiệp. Đó cũng là chân lý để đi tìm con đường giải thoát, mưu cầu hạnh phúc vĩnh viễn.
Đào Thái Sơn
Nguồn: http://giacngo.vn/vanhoa
Nguồn: http://giacngo.vn/vanhoa
Vui lòng gõ tiếng việt có dấu