Thứ Hai 31 Tháng Bảy 2017 - 03:49:25 CH
Một số nét về sắc thái Phật giáo Nam Bộ
(PGVN)
Nhìn một cách tổng thể, xuyên suốt 200 năm lưu truyền, có thể nói, giai đoạn thế kỷ XVII là giai đoạn mà con thuyền Phật giáo (PG) Việt Nam bị bấp bênh, tròng trành trên dòng trôi lịch sử. Nếu thu hẹp ở Nam Bộ hay nhỏ hơn là Gia Định - Sài Gòn - Tp.Hồ Chí Minh, thì Phật giáo đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển, tạo nên một sắc thái đặc thù trong tổng thể văn hóa nước nhà.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
2. Phật giáo Nam tông người Việt
Ảnh minh họa
Tiến trình phát triển này được khơi nguồn từ thuở mảnh đất hiếu sinh hiếu hòa, vốn là vương quốc cổ Phù Nam từ thế kỷ thứ VI về trước, chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Ấn Độ, kết hợp với nền văn hóa bản địa tạo thành văn hóa Khơme - Ấn. Cho đến khi văn minh nhân loại phát triển, trái đất như thu hẹp lại thì nơi đây là điểm hẹn của các luồng tư tưởng kinh tế, chính trị, xã hội, tôn giáo trên thế giới. Chính sự dung hóa này mà Phật giáo cũng đã phát sinh nhiều phong thái đặc thù, đa dạng trong suốt tiến trình hội nhập và phát triển.
Trong lĩnh vực tôn giáo nói chung, hơn nơi nào hết, Nam Bộ là nơi hội tụ nhiều tôn giáo, giáo phái nhất: Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương, đạo Dừa, đạo Nằm... Đối với Phật giáo nói riêng, cũng không có nơi nào có nhiều tông phái, hệ phái như nơi này: Phật giáo Bắc tông, Nam tông người Khơme, Nam tông người Việt, Khất sĩ, Hoa tông... Sau đây, ta thử tìm hiểu khái lược tiến trình du nhập và hội nhập của các tông phái này qua những thăng trầm lịch sử tại đất Nam Bộ.
Trong lĩnh vực tôn giáo nói chung, hơn nơi nào hết, Nam Bộ là nơi hội tụ nhiều tôn giáo, giáo phái nhất: Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương, đạo Dừa, đạo Nằm... Đối với Phật giáo nói riêng, cũng không có nơi nào có nhiều tông phái, hệ phái như nơi này: Phật giáo Bắc tông, Nam tông người Khơme, Nam tông người Việt, Khất sĩ, Hoa tông... Sau đây, ta thử tìm hiểu khái lược tiến trình du nhập và hội nhập của các tông phái này qua những thăng trầm lịch sử tại đất Nam Bộ.
Ảnh minh họa
I. Phật giáo Bắc tông
Phật giáo Bắc tông hay Phật giáo Đại thừa (Mahayana) là tông phái chủ đạo của Phật giáo Việt Nam, chiếm khoảng 80% trong cả nước.
Có người cho rằng, Phật giáo Đại thừa đã truyền vào Nam Bộ khoảng thế kỷ thứ IX và rất thịnh hành trong những năm từ 1181 đến 1218 (1), nhưng đó là những sự kiện của một tiến trình đứt gãy mà ngày nay chưa có đủ cứ liệu để xem xét tường tận. Trong thực tế lịch sử, Phật giáo Đại thừa truyền vào Nam Bộ có thể bằng hai con đường đáng tin cậy sau đây:
1. Năm 1620, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635) đã gả Công chúa Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Cheichetta II. Từ đây sự bang giao giữa hai quốc gia Việt - Miên được thiết lập. Dân chúng hai bên cũng dễ dàng qua lại. Năm 1625, triều đình Angkor chính thức nhận 40 ngàn hộ dân của nước Việt sang sinh sống. Các tăng sĩ Phật giáo ắt hẳn cũng có mặt trong làn sóng di dân này để truyền giáo nơi vùng đất mới.
2. Năm 1679, khi nhà Thanh khuynh loát nhà Minh ở Trung Hoa, hai tướng nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên (Trần Thắng Tài) đã cùng ba ngàn người vượt biên trên 50 chiến thuyền xuôi Nam tỵ nạn, được chúa Nguyễn chấp thuận và lập tức lệnh cho vào định cư sinh sống ở Nông Nại (Đồng Nai), Gia Định - Sài Gòn, Vũng Cù (Định Tường - Mỹ Tho) v.v… và dĩ nhiên các thiền sư cũng đã có mặt trong các đoàn này để gieo mầm giác ngộ.
Cho dù Phật giáo truyền vào Nam Bộ bằng hai con đường trên, hay bằng con đường nào khác, thì sự thật vẫn là hình bóng vị tăng sĩ có mặt rất sớm ở đất Nam Bộ, sớm hơn cả cuộc kinh lược của Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào mùa xuân năm 1698.
Vị thiền sư được sách sử công nhận Sơ tổ của đất Nam Bộ là Thiền sư Bổn Kiểu (Bổn Khao?) khai sơn chùa Long Thiền (nay tọa lạc tại số K2/3B ấp Tân Bình, phường Bửu Hòa, Tp.Biên Hòa - Đồng Nai) vào năm 1664. Rồi từ đó những ngôi chùa liên tiếp được mọc lên như: chùa Đại Giác (ấp Nhị Hòa, xã Hòa Hiệp, tỉnh Đồng Nai), chùa Bửu Phong (ấp Bửu Long, xã Tân Bửu, tỉnh Đồng Nai). Từ đây Phật giáo lan tỏa xuống các vùng lân cận như Sông Bé với chùa Hội Khánh (1741), Long Hưng (cuối thế kỷ XVIII). Gia Định với chùa Phước Tường (1741), Hội Sơn (...), Giác Lâm (1744), Từ Ân (1752), Khải Tường, Kim Chương... Hầu hết các chùa đều do các thiền sư dòng Lâm Tế khai sơn.
Trong buổi đầu hội nhập, Phật giáo Đại thừa sinh hoạt chưa có hệ thống tổ chức rõ rệt. Các sinh hoạt phật sự chủ yếu mang tính “nội tự”. Những phật sự lớn hơn thì “sơn môn” đứng ra tổ chức như giỗ tổ, dạy nghi lễ, dạy kinh - luật - luận bằng chữ Nho (chữ Quốc ngữ lúc này chưa được phổ cập). Vào khoảng thập niên 1850, khi những làn thuốc súng của thực dân phương Tây ngạt tỏa trên nền trời Việt Nam, tình hình xã hội trở nên rối ren, con đường phát triển của Phật giáo cũng u ám.
Đến đầu thế kỷ XX, do ảnh hưởng của phong trào chấn hưng Phật giáo ở Á châu, nhất là Phật giáo Trung Hoa, được Đại sư Thái Hư chủ xướng, Phật giáo Việt Nam cũng nhờ đây mà được khởi sắc chấn hưng. Đứng đầu phong trào này là Hòa thượng (HT) Khánh Hòa. Trợ lý cho HT có Sư Thiện Chiếu. Chính Sư Thiện Chiếu đã ra Hà Nội vào năm 1927 mang chương trình chấn hưng Phật giáo Trung Hoa vào Nam Việt áp dụng. HT.Khánh Hòa bằng chương trình này, đã đi vận động hầu hết các chùa ở Nam Bộ gấp rút mở trường Phật học đào tạo tăng tài. Thế là lớp Phật học ngắn hạn được ra đời mang tên “Phật học Liên xã” được tổ chức lưu động ở các chùa: Long Phước (Trà Ôn), Long Phước (Trà Vinh), Viên Giác (Bến Tre)... Số lượng tăng sinh theo học lên đến cả trăm vị.
Có người cho rằng, Phật giáo Đại thừa đã truyền vào Nam Bộ khoảng thế kỷ thứ IX và rất thịnh hành trong những năm từ 1181 đến 1218 (1), nhưng đó là những sự kiện của một tiến trình đứt gãy mà ngày nay chưa có đủ cứ liệu để xem xét tường tận. Trong thực tế lịch sử, Phật giáo Đại thừa truyền vào Nam Bộ có thể bằng hai con đường đáng tin cậy sau đây:
1. Năm 1620, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635) đã gả Công chúa Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Cheichetta II. Từ đây sự bang giao giữa hai quốc gia Việt - Miên được thiết lập. Dân chúng hai bên cũng dễ dàng qua lại. Năm 1625, triều đình Angkor chính thức nhận 40 ngàn hộ dân của nước Việt sang sinh sống. Các tăng sĩ Phật giáo ắt hẳn cũng có mặt trong làn sóng di dân này để truyền giáo nơi vùng đất mới.
2. Năm 1679, khi nhà Thanh khuynh loát nhà Minh ở Trung Hoa, hai tướng nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên (Trần Thắng Tài) đã cùng ba ngàn người vượt biên trên 50 chiến thuyền xuôi Nam tỵ nạn, được chúa Nguyễn chấp thuận và lập tức lệnh cho vào định cư sinh sống ở Nông Nại (Đồng Nai), Gia Định - Sài Gòn, Vũng Cù (Định Tường - Mỹ Tho) v.v… và dĩ nhiên các thiền sư cũng đã có mặt trong các đoàn này để gieo mầm giác ngộ.
Cho dù Phật giáo truyền vào Nam Bộ bằng hai con đường trên, hay bằng con đường nào khác, thì sự thật vẫn là hình bóng vị tăng sĩ có mặt rất sớm ở đất Nam Bộ, sớm hơn cả cuộc kinh lược của Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào mùa xuân năm 1698.
Vị thiền sư được sách sử công nhận Sơ tổ của đất Nam Bộ là Thiền sư Bổn Kiểu (Bổn Khao?) khai sơn chùa Long Thiền (nay tọa lạc tại số K2/3B ấp Tân Bình, phường Bửu Hòa, Tp.Biên Hòa - Đồng Nai) vào năm 1664. Rồi từ đó những ngôi chùa liên tiếp được mọc lên như: chùa Đại Giác (ấp Nhị Hòa, xã Hòa Hiệp, tỉnh Đồng Nai), chùa Bửu Phong (ấp Bửu Long, xã Tân Bửu, tỉnh Đồng Nai). Từ đây Phật giáo lan tỏa xuống các vùng lân cận như Sông Bé với chùa Hội Khánh (1741), Long Hưng (cuối thế kỷ XVIII). Gia Định với chùa Phước Tường (1741), Hội Sơn (...), Giác Lâm (1744), Từ Ân (1752), Khải Tường, Kim Chương... Hầu hết các chùa đều do các thiền sư dòng Lâm Tế khai sơn.
Trong buổi đầu hội nhập, Phật giáo Đại thừa sinh hoạt chưa có hệ thống tổ chức rõ rệt. Các sinh hoạt phật sự chủ yếu mang tính “nội tự”. Những phật sự lớn hơn thì “sơn môn” đứng ra tổ chức như giỗ tổ, dạy nghi lễ, dạy kinh - luật - luận bằng chữ Nho (chữ Quốc ngữ lúc này chưa được phổ cập). Vào khoảng thập niên 1850, khi những làn thuốc súng của thực dân phương Tây ngạt tỏa trên nền trời Việt Nam, tình hình xã hội trở nên rối ren, con đường phát triển của Phật giáo cũng u ám.
Đến đầu thế kỷ XX, do ảnh hưởng của phong trào chấn hưng Phật giáo ở Á châu, nhất là Phật giáo Trung Hoa, được Đại sư Thái Hư chủ xướng, Phật giáo Việt Nam cũng nhờ đây mà được khởi sắc chấn hưng. Đứng đầu phong trào này là Hòa thượng (HT) Khánh Hòa. Trợ lý cho HT có Sư Thiện Chiếu. Chính Sư Thiện Chiếu đã ra Hà Nội vào năm 1927 mang chương trình chấn hưng Phật giáo Trung Hoa vào Nam Việt áp dụng. HT.Khánh Hòa bằng chương trình này, đã đi vận động hầu hết các chùa ở Nam Bộ gấp rút mở trường Phật học đào tạo tăng tài. Thế là lớp Phật học ngắn hạn được ra đời mang tên “Phật học Liên xã” được tổ chức lưu động ở các chùa: Long Phước (Trà Ôn), Long Phước (Trà Vinh), Viên Giác (Bến Tre)... Số lượng tăng sinh theo học lên đến cả trăm vị.
II. Phật giáo Nam tông
Nói đến Phật giáo Nam tông, chúng ta cần phân biệt rõ hai hệ phái khác nhau là hệ phái Nam tông người Khmer và hệ phái Nam tông người Việt.
Nói đến Phật giáo Nam tông, chúng ta cần phân biệt rõ hai hệ phái khác nhau là hệ phái Nam tông người Khmer và hệ phái Nam tông người Việt.
Ảnh minh họa
1. Hệ phái Nam tông người Khơme
Cho đến nay, các nhà dân tộc học và nhân chủng học, qua nghiên cứu đã xác định: tộc người Khơme có nguồn gốc từ người Phù Nam (Văh Năh) từ thế kỷ VI trở về trước. Từ thế kỷ VII trở đi, sắc tộc này đã bị người Chen La (Chân Lạp hay Campuchia) thôn tính và đồng hóa suốt hơn 10 thế kỷ. Đến thế kỷ XVII thì khu vực này thuộc về lãnh địa Việt Nam và đương nhiên tộc người này cũng đứng trong cộng đồng Việt tộc.
Người dân tộc Văh Năh chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa, kinh tế, chính trị, đặc biệt là tôn giáo của Ấn Độ, từ những thế kỷ trước hoặc đầu công nguyên do các đoàn thương buôn sang làm ăn. Họ thường mời các tăng sĩ Ấn Độ cùng theo để cầu nguyện cho việc làm ăn, hoặc tổ chức các lễ cầu an. Các tăng sĩ đã mang theo kinh sách, chữ nghĩa và các văn hóa phẩm đến đây cùng với các đoàn thương buôn, được dân bản xứ đón nhận nồng nhiệt và tôn làm thầy. Thế là bóng dáng của giáo sĩ Bà La Môn cũng như các thiền sư Phật giáo bắt đầu thấp thoáng trên mảnh đất miền Nam lịch sử này, đặc biệt tập trung tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Ở buổi đầu, Bà La Môn giáo là tôn giáo chủ đạo. Tuy nhiên trong quá trình truyền giáo, các giáo sĩ Bà La Môn chỉ gần gũi nơi chốn triều đình, vua chúa, quí tộc... nên mất dần ảnh hưởng ở quần chúng. Trong khi đó, đạo Phật thì luôn gắn chặt với nhân dân, nên ngày càng phát triển cả chiều sâu và chiều rộng. Đến thế kỷ XIII thì Bà La Môn giáo hầu như triệt diệt. Phật giáo trở thành tôn giáo độc tôn trong lòng người Khơme. Từ đây, vị sư trở thành nhân vật quan trọng trong nhiều mặt, ngôi chùa cũng hiển nhiên là trung tâm văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, tôn giáo, thậm chí là nơi chu toàn cho cả sự sống lẫn sự chết của dân bản làng, phum/sóc.
HT.Thích Dương Nhơn, đại diện cho Phật giáo Nam tông Khơme dự Đại hội Đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam (01-07/11/1981) tại thủ đô Hà Nội, đã phát biểu: “Phật giáo Nam tông chiếm độc tôn trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị, kinh tế, văn hóa trong dân tộc Khơme trải qua nhiều thế kỷ. Đặc điểm của dân tộc Khơme là gắn liền với Phật giáo không tách ra được, vì các vị sư đến chùa tu đều là con em của đồng bào dân tộc. Chùa Phật là nơi tu hành của các vị sư sãi, là nơi làm lễ của đồng bào, là nơi giáo dục, đào tạo con em của đồng bào dân tộc, là trung tâm văn hóa, đồng thời cũng là nơi thờ phượng những người thân của đồng bào dân tộc khi an nghỉ cuối cùng” (2).
Về tổ chức, mỗi tỉnh đều có hội đồng kỷ luật sư sãi (Sa La Kôn). Hội đồng này được điều hành bởi vị sãi cả gọi là Mê Kôn. Đứng đầu các huyện có Anu Kôn. Ở khu vực gồm nhiều xã có Vpacchea. Ở chùa có vị trụ trì trông coi, hướng dẫn dạy dỗ tín đồ phật tử. Hiện nay tăng sĩ Nam tông có hơn 10.000 vị, đặc biệt không có nữ tu. Các sư Nam tông không ăn chay, sống hạnh khất thực theo pháp “Tam tịnh nhục”. Đường hướng giáo dục của Phật giáo Nam tông Khơme hiện nay có chiều hướng phát triển rõ rệt, các lớp Phật học Pàli các cấp được mọc lên như: cao cấp Phật học Pàli ở Sóc Trăng, trung cấp ở Trà Vinh, sơ cấp ở Kiên Giang. Số tăng sinh theo học ba lớp này hiện có trên 3.000 vị.
Người dân tộc Văh Năh chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa, kinh tế, chính trị, đặc biệt là tôn giáo của Ấn Độ, từ những thế kỷ trước hoặc đầu công nguyên do các đoàn thương buôn sang làm ăn. Họ thường mời các tăng sĩ Ấn Độ cùng theo để cầu nguyện cho việc làm ăn, hoặc tổ chức các lễ cầu an. Các tăng sĩ đã mang theo kinh sách, chữ nghĩa và các văn hóa phẩm đến đây cùng với các đoàn thương buôn, được dân bản xứ đón nhận nồng nhiệt và tôn làm thầy. Thế là bóng dáng của giáo sĩ Bà La Môn cũng như các thiền sư Phật giáo bắt đầu thấp thoáng trên mảnh đất miền Nam lịch sử này, đặc biệt tập trung tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Ở buổi đầu, Bà La Môn giáo là tôn giáo chủ đạo. Tuy nhiên trong quá trình truyền giáo, các giáo sĩ Bà La Môn chỉ gần gũi nơi chốn triều đình, vua chúa, quí tộc... nên mất dần ảnh hưởng ở quần chúng. Trong khi đó, đạo Phật thì luôn gắn chặt với nhân dân, nên ngày càng phát triển cả chiều sâu và chiều rộng. Đến thế kỷ XIII thì Bà La Môn giáo hầu như triệt diệt. Phật giáo trở thành tôn giáo độc tôn trong lòng người Khơme. Từ đây, vị sư trở thành nhân vật quan trọng trong nhiều mặt, ngôi chùa cũng hiển nhiên là trung tâm văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, tôn giáo, thậm chí là nơi chu toàn cho cả sự sống lẫn sự chết của dân bản làng, phum/sóc.
HT.Thích Dương Nhơn, đại diện cho Phật giáo Nam tông Khơme dự Đại hội Đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam (01-07/11/1981) tại thủ đô Hà Nội, đã phát biểu: “Phật giáo Nam tông chiếm độc tôn trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị, kinh tế, văn hóa trong dân tộc Khơme trải qua nhiều thế kỷ. Đặc điểm của dân tộc Khơme là gắn liền với Phật giáo không tách ra được, vì các vị sư đến chùa tu đều là con em của đồng bào dân tộc. Chùa Phật là nơi tu hành của các vị sư sãi, là nơi làm lễ của đồng bào, là nơi giáo dục, đào tạo con em của đồng bào dân tộc, là trung tâm văn hóa, đồng thời cũng là nơi thờ phượng những người thân của đồng bào dân tộc khi an nghỉ cuối cùng” (2).
Về tổ chức, mỗi tỉnh đều có hội đồng kỷ luật sư sãi (Sa La Kôn). Hội đồng này được điều hành bởi vị sãi cả gọi là Mê Kôn. Đứng đầu các huyện có Anu Kôn. Ở khu vực gồm nhiều xã có Vpacchea. Ở chùa có vị trụ trì trông coi, hướng dẫn dạy dỗ tín đồ phật tử. Hiện nay tăng sĩ Nam tông có hơn 10.000 vị, đặc biệt không có nữ tu. Các sư Nam tông không ăn chay, sống hạnh khất thực theo pháp “Tam tịnh nhục”. Đường hướng giáo dục của Phật giáo Nam tông Khơme hiện nay có chiều hướng phát triển rõ rệt, các lớp Phật học Pàli các cấp được mọc lên như: cao cấp Phật học Pàli ở Sóc Trăng, trung cấp ở Trà Vinh, sơ cấp ở Kiên Giang. Số tăng sinh theo học ba lớp này hiện có trên 3.000 vị.
Ảnh minh họa
2. Phật giáo Nam tông người Việt
Hệ phái Phật giáo Nam tông người Việt xuất hiện tương đối muộn màng so với dòng lịch sử Phật giáo 2000 năm. Có điều thú vị đáng nói là Phật giáo Nam tông có mặt ở Nam Bộ từ trước hoặc đầu Tây lịch, khi nơi đây còn là nước Phù Nam, điều đó cũng có nghĩa là Phật giáo Nam tông có cùng thời hoặc sớm hơn Phật giáo Bắc tông có mặt ở Giao Châu (Việt Nam). Nhưng người Việt được giác ngộ tư tưởng Phật giáo Nam tông không phải từ miền Tây Nam Bộ mà là một lân bang - Campuchia.
Nói khác hơn, người phật tử Việt Nam sang Campuchia học đạo; sau đó hồi hương, xuất gia và truyền đạo. Thủy tổ của Phật giáo Nam tông người Việt là bác sĩ Lê Văn Giảng, sau này xuất gia mang đạo hiệu Hộ Tông. “1935 có một người bạn của ông Hiểu làm bác sĩ thú y từ Campuchia về dưỡng bệnh tại nhà ông Hiểu là ông Lê Văn Giảng, ông Hiểu đã mang sách Phật bằng tiếng Pháp cho (ông Lê Văn Giảng) xem và khuyên nên về Campuchia tìm thầy học đạo. Sau ba năm nghiên cứu Phật pháp, ông Lê Văn Giảng quyết định xuất gia làm Tỳ kheo có pháp danh là Hộ Tông. Cả hai cùng cam kết là một người làm cư sĩ (ông Hiểu) lo phần cất chùa, hộ tăng, còn Tỳ kheo Hộ Tông lo việc khai Phật Pháp” (3).
Năm 1938 - năm Tỳ kheo Hộ Tông xuất gia - cư sĩ Nguyễn Văn Hiểu cùng với hai cư sĩ là ông Văn Công Hương và Nguyễn Văn Quyến tìm đất xây chùa cho Tỳ kheo Hộ Tông tu hành. Thấy vậy, gia đình ông Bùi Ngươn Hứa phát tâm cúng một lô đất tại Gò Dưa - Thủ Đức. Thế là một ngôi chùa Nam tông được mọc lên trên vùng đất này. Năm sau - năm 1939, Đức vua Sãi Chuon Nath cùng phái đoàn 30 vị tỳ kheo từ Campuchia sang làm lễ kiết giới Sìma và đặt tên chùa là Ratanaramyarama (Bửu Quang tự). Đây là ngôi chùa đầu tiên và Tỳ kheo Hộ Tông là Tăng sĩ đầu tiên của Phật giáo Nam tông người Việt.
Năm 1957, chính quyền Sài Gòn chấp thuận cho Phật giáo Nam tông người Việt thành lập một Giáo hội mang tên Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam. HT.Bửu Chơn được suy tôn lên ngôi Tăng thống. Trụ sở Trung ương đặt tại chùa Kỳ Viên (610 Nguyễn Đình Chiểu, Q.3 ngày nay).
III. Hệ phái Khất sĩ
Nói khác hơn, người phật tử Việt Nam sang Campuchia học đạo; sau đó hồi hương, xuất gia và truyền đạo. Thủy tổ của Phật giáo Nam tông người Việt là bác sĩ Lê Văn Giảng, sau này xuất gia mang đạo hiệu Hộ Tông. “1935 có một người bạn của ông Hiểu làm bác sĩ thú y từ Campuchia về dưỡng bệnh tại nhà ông Hiểu là ông Lê Văn Giảng, ông Hiểu đã mang sách Phật bằng tiếng Pháp cho (ông Lê Văn Giảng) xem và khuyên nên về Campuchia tìm thầy học đạo. Sau ba năm nghiên cứu Phật pháp, ông Lê Văn Giảng quyết định xuất gia làm Tỳ kheo có pháp danh là Hộ Tông. Cả hai cùng cam kết là một người làm cư sĩ (ông Hiểu) lo phần cất chùa, hộ tăng, còn Tỳ kheo Hộ Tông lo việc khai Phật Pháp” (3).
Năm 1938 - năm Tỳ kheo Hộ Tông xuất gia - cư sĩ Nguyễn Văn Hiểu cùng với hai cư sĩ là ông Văn Công Hương và Nguyễn Văn Quyến tìm đất xây chùa cho Tỳ kheo Hộ Tông tu hành. Thấy vậy, gia đình ông Bùi Ngươn Hứa phát tâm cúng một lô đất tại Gò Dưa - Thủ Đức. Thế là một ngôi chùa Nam tông được mọc lên trên vùng đất này. Năm sau - năm 1939, Đức vua Sãi Chuon Nath cùng phái đoàn 30 vị tỳ kheo từ Campuchia sang làm lễ kiết giới Sìma và đặt tên chùa là Ratanaramyarama (Bửu Quang tự). Đây là ngôi chùa đầu tiên và Tỳ kheo Hộ Tông là Tăng sĩ đầu tiên của Phật giáo Nam tông người Việt.
Năm 1957, chính quyền Sài Gòn chấp thuận cho Phật giáo Nam tông người Việt thành lập một Giáo hội mang tên Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam. HT.Bửu Chơn được suy tôn lên ngôi Tăng thống. Trụ sở Trung ương đặt tại chùa Kỳ Viên (610 Nguyễn Đình Chiểu, Q.3 ngày nay).
III. Hệ phái Khất sĩ
Ảnh minh họa
Phật giáo Nam tông người Việt xuất hiện được một thời gian thì hệ phái Khất sĩ ra đời. Người sáng lập là Sư trưởng Minh Đăng Quang.
Sư trưởng Minh Đăng Quang, thế danh Nguyễn Thành Đạt, tự Lý Hườn, sinh ngày 26-9 Quý Hợi (1923) tại Vĩnh Long. Sau 4 năm học đạo ở Campuchia, năm 21 tuổi (1944), sư xuất gia và hành đạo tại quê hương, sau đó qua Thất Sơn và Hà Tiên truyền giáo. Ngài tu hạnh “Khất sĩ”, sống đời du tăng. Bằng sự thâu hóa và sáng tạo, ngài đã dung hợp hai hệ tư tưởng Phật giáo Nam tông và Bắc tông để gọi là tông phái thuần Việt như chúng ta đã biết: đạo Phật Khất sĩ Việt Nam. Trong phương thức truyền giáo, kinh điển của hệ phái được cô đọng trong bộ Chơn lý; ngoài ra còn có một vài tác phẩm biên soạn bằng Việt ngữ, đặc biệt sáng tác văn thơ, phương thức này tương đối mới lạ, dễ hấp dẫn chúng dân Nam Bộ.
Sư trưởng Minh Đăng Quang, thế danh Nguyễn Thành Đạt, tự Lý Hườn, sinh ngày 26-9 Quý Hợi (1923) tại Vĩnh Long. Sau 4 năm học đạo ở Campuchia, năm 21 tuổi (1944), sư xuất gia và hành đạo tại quê hương, sau đó qua Thất Sơn và Hà Tiên truyền giáo. Ngài tu hạnh “Khất sĩ”, sống đời du tăng. Bằng sự thâu hóa và sáng tạo, ngài đã dung hợp hai hệ tư tưởng Phật giáo Nam tông và Bắc tông để gọi là tông phái thuần Việt như chúng ta đã biết: đạo Phật Khất sĩ Việt Nam. Trong phương thức truyền giáo, kinh điển của hệ phái được cô đọng trong bộ Chơn lý; ngoài ra còn có một vài tác phẩm biên soạn bằng Việt ngữ, đặc biệt sáng tác văn thơ, phương thức này tương đối mới lạ, dễ hấp dẫn chúng dân Nam Bộ.
Về tổ chức, tăng sĩ hệ phái được tu học dưới sự hướng dẫn của Sư trưởng Minh Đăng Quang. Đến ngày 1 tháng 2 Giáp Ngọ (1954), sư trưởng bị ngoại đạo bắt đi và vắng bóng (đến ngày nay). Từ đó hàng hậu duệ mới tiến đến việc thành lập các giáo đoàn. Đến đầu thập niên 1960 thì hệ phái hình thành được 5 giáo đoàn trên hai miền Trung và Nam của đất nước.
Ngày 22 tháng 4 năm 1966, hệ phái Khất sĩ đã mở một hội nghị để thành lập một tổ chức bề thế hơn có tên Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam. Bản điều lệ được hình thành gồm 32 điều. HT.Thích Giác Nhiên được suy cử lên ngôi Tổng Trị sự trưởng. Năm 1973 vào ngày 4 tháng 9, giáo phái tiến hành Đại hội tại tịnh xá trung tâm, hệ thống tổ chức được phân làm hai viện: Viện Chỉ đạo và Viện Hành đạo. Bản điều lệ được chỉnh lý thành 26 điều. Đại hội ngày 17 tháng 6 năm 1975, bản điều lệ được tu chỉnh thành 6 chương 27 điều. Đây cũng là Đại hội cuối cùng của Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam, trước khi gia nhập vào Giáo hội đương đại.
Hiện nay, hệ phái Khất sĩ có khoảng 2.000 tăng, ni và hơn 500 ngôi tịnh xá.
IV. Phật giáo Hoa tông
IV. Phật giáo Hoa tông
Hiện nay, người Hoa có khoảng gần 1 triệu dân trên cả nước, Tp.Hồ Chí Minh chiếm khoảng 50%, tập trung chủ yếu ở các quận 5, 6, 11 và rải rác ở một số quận, huyện. Người Hoa tại Việt Nam chiếm khoảng 80% là tín đồ đạo Phật. Phật giáo Hoa tông, do đó cũng được xem là một hệ phái có vị trí quan trọng trong cộng đồng Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Như chúng ta đã biết, vào cuối thế kỷ XVII, nhà nước Trung Hoa có sự đảo chính, một số tướng lãnh và dân chúng nhà Minh không thần phục nhà Thanh nên bỏ nước ra đi. Họ trôi dạt xuống Nam Việt Nam, được chúa Nguyễn cho định cư. Họ ổn định cuộc sống ở đây và xem như đây là quê hương thứ hai của họ. Số người Hoa tập trung rải rác khắp nơi, nhưng nhiều nhất là khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn, Đồng Nai, Mỹ Tho, Hà Tiên... Riêng khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn (Q.5), số Hoa kiều có đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, tôn giáo tương đối rõ nét. Khu vực quận 5 cũng được xem là trung tâm trên mọi lĩnh vực của Hoa kiều tại thành phố, kể cả vấn đề tôn giáo.
Những ngôi tự viện ban đầu là do Hội Ngũ bang (5 nhóm người: Triều Châu, Quảng Đông, Phước Kiến, Hải Nam, Hẹ) đứng ra xây cất như chùa Ông Nghĩa An, chùa Bà Tuệ Thành, chùa Ông Bổn, Quan Âm miếu v.v… thực tế khi mới thành lập, những cơ sở này được gọi là hội quán, dùng vào việc hội họp, đình đám, bàn việc làm ăn v.v...
Vấn đề sinh hoạt tín ngưỡng chỉ là một phần thôi. Về sau các tăng sĩ từ Trung Hoa sang, chưa có tự viện nên tạm dừng chân tại các hội quán này. Qua thời gian, chúng biến thành chùa, từ đó trở thành nơi tín ngưỡng thuần túy, làm tiền đề cho việc phát triển Phật giáo Hoa tông sau này. Khi các hội quán được cải thành chùa thì xu hướng phát triển Phật giáo bắt đầu manh nha, tăng sĩ Hoa tông số lượng cũng tăng lên. Từ đó, các bậc tôn túc người Hoa mới tính đến việc thành lập các ngôi tự viện để mở mang Phật giáo.
Chùa Nam Phổ Đà, đường Hùng Vương, quận 6, được hai HT Thống Lương và Thanh Thuyền xây dựng vào năm 1945, được xem là ngôi chùa đầu tiên do các tăng sĩ Hoa kiều tạo dựng. Rồi những năm tiếp theo, các ngôi chùa Hoa lần lượt mọc lên như chùa Quan Âm Trụ Trúc Lâm (Q.11) do HT.Lương Giác xây năm 1951, chùa Hoa Nghiêm (Q.Bình Thạnh) do HT.Thọ Dã xây năm 1952, Từ Ân thiền tự (Q.11) do HT.Hoằng Tu xây năm 1955, chùa Vạn Phật (Văn phòng Ban Đại diện Phật giáo quận 5 hiện nay) do HT.Diệu Hoa và HT.Đức Bổn xây năm 1959, chùa Thảo Đường (Q.6) do HT.Diệu Nguyên xây năm 1960...
Năm 1968, HT.Siêu Trần từ Đài Loan sang, nhận thấy tiềm năng phát triển của Phật giáo Hoa tông tại Việt Nam, Ngài đã cùng HT.Thanh Thuyền đi vận động để thành lập Giáo hội. Đến năm 1973, tại Đại hội ngày 20 tháng 5, hệ phái thống nhất lấy tên Giáo hội Phật giáo Hoa tông Việt Nam, trụ sở đặt tại số 195, lầu 4, đường Nguyễn Tri Phương - quận 5. Thành phần Ban Chấp hành Trung ương được suy cử gồm: Cố vấn Ban Chấp hành: HT.Hoằng Tu; Chủ tịch: Pháp sư Siêu Trần; Phó Chủ tịch: Pháp sư Thanh Thuyền; Tổng Thư ký: Thượng tọa Duy Nhật và một số vị trong Ban Thường trực gồm 10 người.
Ngày 21/08/1975, Đại hội Giáo hội Phật giáo Hoa tông Việt Nam được tổ chức, bầu ra Ban Chấp hành mới gồm: Chủ tịch: HT.Thích Phước Quang; Phó Chủ tịch: HT.Tăng Đức Bổn; Thư ký: Cư sĩ Vương Viên Lương và một số ủy viên. Năm 1976, HT.Thích Phước Quang được mời làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước TP.Hồ Chí Minh - một tổ chức tiền đề cho việc thống nhất Phật giáo đi đến việc thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong thời đại mới.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, Phật giáo Việt Nam có khuynh hướng quy về một mối. Ngày 07/08/1975, Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước TP.Hồ Chí Minh ra đời, HT.Thích Minh Nguyệt với cương vị Chủ tịch, đã đứng ra kêu gọi thống nhất Phật giáo. Bên cạnh đó có HT.Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và HT.Thích Thế Long, Hội trưởng Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam; cả ba vị trưởng lão này cùng đứng lên kêu gọi tăng, ni, phật tử trong cả nước tham dự ý tưởng thống nhất này.
Ngày 12/02/1980, Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam được thành lập, HT.Thích Trí Thủ được đề cử làm Trưởng ban. Sau hơn một năm tích cực vận động, ngày 04/11/1981, Đại hội đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam được khai mạc tại thủ đô Hà Nội có 165 đại biểu của 9 Giáo hội, hệ phái tham dự, đến ngày 7 thì bế mạc, khai sinh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Tóm lại, trong suốt tiến trình “300 năm Gia Định - Sài Gòn - TP.Hồ Chí Minh”, Phật giáo đã trở thành một thực thể văn hóa, tôn giáo hiện hữu sinh động giữa “đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”, tạo nên một dáng vẻ vừa uy nghiêm của một tín ngưỡng lâu đời, vừa linh hoạt trong phong thái của nền văn hóa phồn thực tại đất Nam Bộ này. Nhìn từ thực tế có thể nói rằng, chưa có một quốc gia nào, Phật giáo mang sắc thái phong phú, đa dạng như Phật giáo Nam Bộ Việt Nam.
Có những quốc gia thuần túy Bắc tông như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên...; những quốc gia thuần túy Nam tông như Thái Lan, Myanmar, Sri Lanka, Lào, Campuchia...; ở đây, Phật giáo Nam Bộ Việt Nam là nơi tích tụ hai hệ tư tưởng Phật giáo này: Nam tông, Bắc tông, đặc biệt có thêm một vài hệ phái khác nhau. Tuy nhiên, kể từ sau Đại hội thống nhất Phật giáo Việt Nam năm 1981, tất cả các hệ phái đều sinh hoạt hài hòa, nhất quán từ ý chí đến hành động, từ lãnh đạo đến tổ chức trong việc hoằng dương Phật giáo, lợi đạo ích đời, lấy phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội” làm cương lĩnh hoạt động.
Ngày nay, điểm lại giai đoạn lịch sử Phật giáo 300 năm, có thể nói Nam Bộ là mảnh đất phát sinh nhiều hệ phái Phật giáo, nhưng Nam Bộ cũng chính là chiếc nôi phát triển mạnh nhất Phật giáo Việt Nam.
Như chúng ta đã biết, vào cuối thế kỷ XVII, nhà nước Trung Hoa có sự đảo chính, một số tướng lãnh và dân chúng nhà Minh không thần phục nhà Thanh nên bỏ nước ra đi. Họ trôi dạt xuống Nam Việt Nam, được chúa Nguyễn cho định cư. Họ ổn định cuộc sống ở đây và xem như đây là quê hương thứ hai của họ. Số người Hoa tập trung rải rác khắp nơi, nhưng nhiều nhất là khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn, Đồng Nai, Mỹ Tho, Hà Tiên... Riêng khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn (Q.5), số Hoa kiều có đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, tôn giáo tương đối rõ nét. Khu vực quận 5 cũng được xem là trung tâm trên mọi lĩnh vực của Hoa kiều tại thành phố, kể cả vấn đề tôn giáo.
Những ngôi tự viện ban đầu là do Hội Ngũ bang (5 nhóm người: Triều Châu, Quảng Đông, Phước Kiến, Hải Nam, Hẹ) đứng ra xây cất như chùa Ông Nghĩa An, chùa Bà Tuệ Thành, chùa Ông Bổn, Quan Âm miếu v.v… thực tế khi mới thành lập, những cơ sở này được gọi là hội quán, dùng vào việc hội họp, đình đám, bàn việc làm ăn v.v...
Vấn đề sinh hoạt tín ngưỡng chỉ là một phần thôi. Về sau các tăng sĩ từ Trung Hoa sang, chưa có tự viện nên tạm dừng chân tại các hội quán này. Qua thời gian, chúng biến thành chùa, từ đó trở thành nơi tín ngưỡng thuần túy, làm tiền đề cho việc phát triển Phật giáo Hoa tông sau này. Khi các hội quán được cải thành chùa thì xu hướng phát triển Phật giáo bắt đầu manh nha, tăng sĩ Hoa tông số lượng cũng tăng lên. Từ đó, các bậc tôn túc người Hoa mới tính đến việc thành lập các ngôi tự viện để mở mang Phật giáo.
Chùa Nam Phổ Đà, đường Hùng Vương, quận 6, được hai HT Thống Lương và Thanh Thuyền xây dựng vào năm 1945, được xem là ngôi chùa đầu tiên do các tăng sĩ Hoa kiều tạo dựng. Rồi những năm tiếp theo, các ngôi chùa Hoa lần lượt mọc lên như chùa Quan Âm Trụ Trúc Lâm (Q.11) do HT.Lương Giác xây năm 1951, chùa Hoa Nghiêm (Q.Bình Thạnh) do HT.Thọ Dã xây năm 1952, Từ Ân thiền tự (Q.11) do HT.Hoằng Tu xây năm 1955, chùa Vạn Phật (Văn phòng Ban Đại diện Phật giáo quận 5 hiện nay) do HT.Diệu Hoa và HT.Đức Bổn xây năm 1959, chùa Thảo Đường (Q.6) do HT.Diệu Nguyên xây năm 1960...
Năm 1968, HT.Siêu Trần từ Đài Loan sang, nhận thấy tiềm năng phát triển của Phật giáo Hoa tông tại Việt Nam, Ngài đã cùng HT.Thanh Thuyền đi vận động để thành lập Giáo hội. Đến năm 1973, tại Đại hội ngày 20 tháng 5, hệ phái thống nhất lấy tên Giáo hội Phật giáo Hoa tông Việt Nam, trụ sở đặt tại số 195, lầu 4, đường Nguyễn Tri Phương - quận 5. Thành phần Ban Chấp hành Trung ương được suy cử gồm: Cố vấn Ban Chấp hành: HT.Hoằng Tu; Chủ tịch: Pháp sư Siêu Trần; Phó Chủ tịch: Pháp sư Thanh Thuyền; Tổng Thư ký: Thượng tọa Duy Nhật và một số vị trong Ban Thường trực gồm 10 người.
Ngày 21/08/1975, Đại hội Giáo hội Phật giáo Hoa tông Việt Nam được tổ chức, bầu ra Ban Chấp hành mới gồm: Chủ tịch: HT.Thích Phước Quang; Phó Chủ tịch: HT.Tăng Đức Bổn; Thư ký: Cư sĩ Vương Viên Lương và một số ủy viên. Năm 1976, HT.Thích Phước Quang được mời làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước TP.Hồ Chí Minh - một tổ chức tiền đề cho việc thống nhất Phật giáo đi đến việc thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong thời đại mới.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, Phật giáo Việt Nam có khuynh hướng quy về một mối. Ngày 07/08/1975, Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước TP.Hồ Chí Minh ra đời, HT.Thích Minh Nguyệt với cương vị Chủ tịch, đã đứng ra kêu gọi thống nhất Phật giáo. Bên cạnh đó có HT.Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và HT.Thích Thế Long, Hội trưởng Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam; cả ba vị trưởng lão này cùng đứng lên kêu gọi tăng, ni, phật tử trong cả nước tham dự ý tưởng thống nhất này.
Ngày 12/02/1980, Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam được thành lập, HT.Thích Trí Thủ được đề cử làm Trưởng ban. Sau hơn một năm tích cực vận động, ngày 04/11/1981, Đại hội đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam được khai mạc tại thủ đô Hà Nội có 165 đại biểu của 9 Giáo hội, hệ phái tham dự, đến ngày 7 thì bế mạc, khai sinh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Tóm lại, trong suốt tiến trình “300 năm Gia Định - Sài Gòn - TP.Hồ Chí Minh”, Phật giáo đã trở thành một thực thể văn hóa, tôn giáo hiện hữu sinh động giữa “đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”, tạo nên một dáng vẻ vừa uy nghiêm của một tín ngưỡng lâu đời, vừa linh hoạt trong phong thái của nền văn hóa phồn thực tại đất Nam Bộ này. Nhìn từ thực tế có thể nói rằng, chưa có một quốc gia nào, Phật giáo mang sắc thái phong phú, đa dạng như Phật giáo Nam Bộ Việt Nam.
Có những quốc gia thuần túy Bắc tông như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên...; những quốc gia thuần túy Nam tông như Thái Lan, Myanmar, Sri Lanka, Lào, Campuchia...; ở đây, Phật giáo Nam Bộ Việt Nam là nơi tích tụ hai hệ tư tưởng Phật giáo này: Nam tông, Bắc tông, đặc biệt có thêm một vài hệ phái khác nhau. Tuy nhiên, kể từ sau Đại hội thống nhất Phật giáo Việt Nam năm 1981, tất cả các hệ phái đều sinh hoạt hài hòa, nhất quán từ ý chí đến hành động, từ lãnh đạo đến tổ chức trong việc hoằng dương Phật giáo, lợi đạo ích đời, lấy phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội” làm cương lĩnh hoạt động.
Ngày nay, điểm lại giai đoạn lịch sử Phật giáo 300 năm, có thể nói Nam Bộ là mảnh đất phát sinh nhiều hệ phái Phật giáo, nhưng Nam Bộ cũng chính là chiếc nôi phát triển mạnh nhất Phật giáo Việt Nam.
(Tham luận Hội thảo Khoa học 300 năm Phật giáo Gia Định - Sài Gòn- TP.Hồ Chí Minh)
Chùa Hưng Phước, mùa Phật Đản PL.2542
HT.Thích Hiển Pháp
Chùa Hưng Phước, mùa Phật Đản PL.2542
HT.Thích Hiển Pháp
Chú thích:
(1) Thạch Voi - Hoàng Túc. Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khơme Nam Bộ, NXB Tổng hợp Hậu Giang 1988, tr.86.
(2) Kỷ yếu Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam, Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam ấn hành 1986, tr.35.
(3) Bửu Chánh, Một vài nét về Phật giáo Nam tông Việt Nam. Tập Văn số 21, Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, 1991, tr.82.
(1) Thạch Voi - Hoàng Túc. Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khơme Nam Bộ, NXB Tổng hợp Hậu Giang 1988, tr.86.
(2) Kỷ yếu Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam, Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam ấn hành 1986, tr.35.
(3) Bửu Chánh, Một vài nét về Phật giáo Nam tông Việt Nam. Tập Văn số 21, Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, 1991, tr.82.
Nguồn: http://phatgiao.org.vn
Vui lòng gõ tiếng việt có dấu