Thứ Tư 26 Tháng Bảy 2017 - 09:08:33 SA
ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN CỦA NGƯỜI KHMER Ở NAM BỘ: NHÌN TỪ SINH THÁI HỌC PHẬT GIÁO
Mối quan hệ giữa con người và môi trường đã được các học giả phương Tây quan tâm từ thời kỳ cổ đại. Sử gia Hy Lạp, Herodotus đã ghi lại những biến đổi của môi trường dưới tác động của con người với quan niệm sự can thiệp ở phạm vi rộng lớn mà con người gây ra đối với tự nhiên sẽ chịu sự trừng phạt của Thượng đế (Phạm Huỳnh Phương, Hoàng Cầm 2013: 138). Trong nghiên cứu văn hóa, môi trường tự nhiên phải luôn được chú trọng vì nó có ảnh hưởng chi phối đến quá trình hình thành và phát triển văn hóa của các tộc người, góp phần khu biệt văn hóa giữa vùng này với vùng khác. Nhận thấy tầm quan trọng của môi trường trong việc cân bằng sinh thái đối với đời sống con người, những vị lãnh đạo tinh thần của Phật giáo Theravada đã sớm chủ trương phát triển dung hòa tôn giáo với môi trường tự nhiên. Sự dung hòa này đã góp phần quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nền văn hóa đặc sắc mang đậm nét tôn giáo truyền thống của cư dân Khmer Nam Bộ.
Quan điểm sinh thái học Phật giáo của người Khmer Nam Bộ
Sinh thái học tâm linh (Spiritual Ecology) là một chuyên ngành khoa học quan tâm đến mối quan hệ giữa tôn giáo, tín ngưỡng và môi trường, xuất hiện cách đây chỉ một vài thập kỷ. Đối tượng nghiên cứu của các nhà sinh thái học tâm linh thường là những cộng đồng nhỏ, có sự biệt lập tương đối với thế giới bên ngoài. Những cộng đồng này vẫn thực hành những tín ngưỡng truyền thống của họ. Từ những năm 1990, sinh thái học tâm linh trở thành một hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu về biến đổi môi trường. Nó được coi là giải pháp đặc biệt hiệu quả trong việc bảo tồn đa dạng sinh học, duy trì hệ sinh thái bền vững (Phạm Huỳnh Phương, Hoàng Cầm 2013, 145).
Thực tế ở Việt Nam và nhiều quốc gia khác trên thế giới đã chứng minh vai trò của tôn giáo, tín ngưỡng trong việc bảo tồn môi trường tự nhiên tránh sự tàn phá của con người. Reed L. Wedley và Carol J. Pierce Colfer (2004) đã khảo cứu và lột tả vai trò của tín ngưỡng bản địa trong việc bảo tồn các khu rừng thiêng ở vùng Tây bán đảo Kalimantan, Indonesia (Phạm Huỳnh Phương, Hoàng Cầm 2013, 145). Theo hai tác giả này sự thiêng hóa một số khu rừng ở đây có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn các loài động vật, đa dạng sinh học thông qua việc tạo dựng các quy ước cộng đồng trong việc khai thác các nguồn tài nguyên từ rừng, cụ thể thông qua săn bắn, hái lượm và canh tác (Phạm Huỳnh Phương, Hoàng Cầm 2013, 145).
Đối với cộng đồng người Khmer Nam Bộ, sinh thái học Phật giáo Theravada đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường tự nhiên xung quanh chùa chiền và địa bàn cư trú của người Khmer. Sinh thái học Phật giáo Theravada dựa trên nền tảng triết lý của nhà Phật cùng kết hợp nhuần nhuyễn với tín ngưỡng dân gian thông qua vai trò giáo dục cộng đồng của tầng lớp sư sãi. Phật giáo Theravada đã sử dụng hình thức thiêng hóa các yếu tố môi trường liên quan trực đến đời sống của con người và hoạt động sản xuất nông nghiệp bằng những nghi thức, truyền thuyết và Phật thoại. Quan niệm của Phật giáo Theravada xem môi trường là ngôi nhà chung cho sự sống của vạn vật và muôn loài, các yếu tố môi trường như cây cối, đất đai, nguồn nước và không trung đều do chư thiên cai quản. Việc nghiêm cấm lạm sát các loài sinh vật và tránh làm bẩn nguồn nước là hai trong số những quy ước của Phật giáo Theravada trong khuyến khích người tín đồ bảo vệ môi trường thiên nhiên. Luật nhân quả (Karma) đã được Phật giáo Theravada áp dụng trong công tác truyền bá tư tưởng về lối sống cân bằng giữa con người với các loài vật và môi trường tự nhiên đã tạo nên sự phát triển bền vững cho nhiều vùng sinh thái xung quanh nhà chùa tại các tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng. Theo quan điểm sinh thái văn hóa (cultural ecology) của nhà nhân học Mỹ Julian Steward sinh thái văn hóa là cách con người sử dụng văn hóa để thích nghi với môi trường thiên nhiên cụ thể trong bối cảnh nền văn hóa của họ (Phan Thị Yến Tuyết 2010, 30). Các xã hội có công nghệ kỹ thuật càng thô sơ thì xã hội càng phụ thuộc vào tự nhiên. Từ quan điểm của Julian Steward, chúng ta có thể thấy xã hội của người Khmer Nam Bộ không thuộc xã hội công nghệ hiện đại nên rất thích hợp với phương thức bảo vệ môi trường theo phương thức sinh thái học Phật giáo Theravada. Cụ thể như những yếu thiên nhiên quan trọng đối với đời sống cộng đồng thường được họ thiêng hóa.
Bảo vệ nguồn nước nhìn từ quan điểm sinh thái học Phật giáo
Người Khmer là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước nên đối với họ nước là biểu trưng cho mạch sống thiêng liêng mà thần linh đã ban tặng cho con người. Nước được lưu giữ trong các dòng sông, những hồ nước thiêng (Baray) do các rắn thần Naga canh giữ và ban phát cho con người. Naga (Niek trong tiếng Khmer) là linh vật thân cận nhất của Đức Phật, nó xuất hiện trong suốt cuộc đời hành đạo và nhập diệt của ngài. Hình tượng rắn Naga ba đầu được người Khmer tin là con vật làm mưa của thần Phra In (Đế Thích/Indra) trên thiên giới.
Vì xem nước là nguồn sống thiêng liêng nên người Khmer Nam Bộ chỉ dựng nhà sàn trên mặt đất, quy định của cộng đồng nghiêm cấm việc dựng nhà hay làm chỗ cư trú trên đầu nguồn của các dòng sông và trên sông rạch. Nguyên tắc này nhằm để tránh việc làm bẩn nguồn nước sinh hoạt của cộng đồng. Người Khmer xem nước là thiêng liêng nên tục rẩy nước chúc phúc trong các nghi lễ của nhà chùa luôn được chú trọng nhằm cầu mong an lạc, thái bình, tai qua nạn khỏi cho Phật tử. Trong lễ cúng trăng (Ok Om Bok) hay lễ mừng năm mới (Chol Chnam Thmay), người Phật tử dùng nước thiêng tắm cho sư sãi và người lớn tuổi trong gia đình để tạ ơn Tam bảo cũng như tạ ơn đấng sinh thành.
Trong số các nghi thức của lễ cúng trăng (Ok Om Bok) diễn ra vào ngày 15 tháng 10 Âm lịch, đồng bào Khmer Nam Bộ luôn tổ chức đua ghe Ngo. Đây cũng là hành động tôn vinh nước gắn liền với sự tích về Đức Phật và các long thần Naga canh giữ cõi thủy cung. Bên cạnh nghi lễ thả đèn gió nhằm ý nghĩa tống tiễn mùa mưa và làm sạch không trung, nghi lễ thả đèn nước (Loi Phratip) cũng được đồng bào Khmer thực hiện nhằm mang ý tạ lỗi với nguồn nước vì trong cuộc sống con người đã vô tình làm ô uế nguồn nước. Trong lễ thả đèn gió và đèn nước nhiều bài tụng được ông Acha (pháp sư) đại diện cộng đồng đọc lên thể hiện việc tạ ơn mặt trăng, mặt đất, nguồn nước và cầu mong các vị thần thiên nhiên tha thứ lỗi lầm của con người (Phan Thị Yến Tuyết 2010, 29).
Sau bài tụng, người dân đưa đèn nước ra sông, suối, kênh rạch, ao hồ gần chùa rồi thả xuống nước. Như vậy, nghi thức thả đèn nước phản ánh ý nghĩa nhân văn cao đẹp của người Khmer Nam Bộ, thể hiện văn hóa ứng xử với nguồn nước, việc thiêng hóa nguồn nước góp phần tăng cường ý thức của người Phật tử trong việc bảo vệ nguồn sống của cộng đồng.
Bảo vệ đất đai nhìn từ quan điểm sinh thái học Phật giáo
Người Khmer quan niệm rằng đất đai xung quanh nhà chùa là đất thiêng, được cai quản bởi vị nữ thần mẹ đất Thorni Phra. Truyền thuyết mô tả bà là một nữ nhân xinh đẹp có thân thể duyên dáng với mái tóc dài óng ả biểu trưng cho sông suối trên mặt đất. Bà canh giữ vùng đất thiêng của nhà chùa được truyền thuyết kể rằng pháp lực của bà đã bảo vệ thành công đắc quả tu hành của Đức Phật qua hành động dùng đôi tay vắt mái tóc làm thành một dòng suối cuối trôi lũ âm binh của quỷ vương Mara. Trong 49 ngày thiền định để tìm chân lý cứu thế, có một lần Đức Phật bị ba người con gái của Mara đến khuyến dụ bằng nhan sắc và các vũ điệu dâm ô nên ngài đã nhờ nữ thần Thorni Phra chứng quả bằng cách trỏ ngón tay xuống đất. Hình tượng nữ thần đất Thorni Phra thường được dựng trên ngôi tháp đầu tiên nằm đối diện với chánh điện (Vihara) nhằm để canh gác đất đai cho nhà chùa và chứng nhận đắc quả của Đức Phật như trường hợp điêu khắc tại chùa Campasala (chùa Phướng) thành phố Trà Vinh.
Vì quan niệm đất đai của nhà chùa là đất thiêng nên trong cuộc sống người Khmer luôn tránh mọi xâm hại đến đất đai của nhà chùa bằng bất cứ hình thức nào. Ở những ngôi chùa có người Khmer sống xung quanh như trường hợp của chùa Quy Nông thuộc huyện Châu Thành tỉnh Trà Vinh. Chúng tôi thấy Phật tử khi dựng nhà luôn giữ một khoảng cách không gian tách biệt với phần đất của nhà chùa để trong cuộc sống tránh làm ô ế đến đất thiêng hay gây ồn ào làm ảnh hưởng đến cuộc sống tu hành của sư sãi. Người sống quanh chùa luôn tự thân ý thức về vấn đề vệ sinh như không rả rác, xây nhà vệ sinh, xây chuồng gia súc, gia cầm hoặc đào đường thoát nước hướng về phần đất của nhà chùa. Họ cũng không bao giờ săn bắt các loại động vật, chim chóc sống trong khuôn viên của vùng đất thiêng. Theo quan niệm của Phật tử Khmer nếu làm hại đến đất đai hay săn đuổi thú vật đang cư ngụ quanh chùa thì người sống sẽ gặp phải những tai ương trong cuộc đời, còn người chết sẽ không lên được cõi Niết Bàn (Niek Phan), tức con người sẽ phải trả giá cho mọi hành động tốt xấu của mình gọi chung là Nghiệp báo (Karma). Tất cả mọi hành vi tốt xấu của trong ứng xử với đất đai sẽ được nữ thần đất quy chứng cũng như Đức Phật cũng nhờ nàng chứng quả cho mình khi ngài bị đám con gái của Mara quấy phá.
Xuất phát từ quan điểm tôn giáo, nên việc bảo vệ đất đai và những thành quả của nhà chùa luôn được Phật tử xem trọng. Trong quá trình nhiều năm thực địa tại những địa phương của tỉnh Trà Vinh có đông người Khmer sinh sống như huyện Trà Cú, Cầu Kè, Cầu Ngang và Châu Thành, chúng tôi chưa bao giờ chứng kiến hay nghe kể về trường hợp một Phật tử Khmer nào đó đã chiếm dụng đất đai của nhà chùa làm chỗ ở như hoàn cảnh của một vài ngôi chùa Việt ở các thành phố hay thị trấn trên cả nước.
Bảo vệ cây cối nhìn từ quan điểm sinh thái học Phật giáo
Ngoài đất đai, cây cối trong khuôn viên chùa cũng là đối tượng được bảo vệ nghiêm ngặt về mặt tâm linh. Xuất phát từ thuyết vũ trụ luận của Phật giáo Theravada xem ngôi chùa là biểu tượng của ngọn Tudi sơn, là trung tâm của Tam giới, nơi mà Đức Phật đang hạnh trì thuyết pháp. Bao quanh ngọn Tudi sơn là khu rừng thần Himaphan, dùng làm nơi tu hành lý tưởng của 18 vị La Hán (Arhat) và những loài linh vật nhiều quyền năng.
Sinh thái học tâm linh (Spiritual Ecology) là một chuyên ngành khoa học quan tâm đến mối quan hệ giữa tôn giáo, tín ngưỡng và môi trường, xuất hiện cách đây chỉ một vài thập kỷ. Đối tượng nghiên cứu của các nhà sinh thái học tâm linh thường là những cộng đồng nhỏ, có sự biệt lập tương đối với thế giới bên ngoài. Những cộng đồng này vẫn thực hành những tín ngưỡng truyền thống của họ. Từ những năm 1990, sinh thái học tâm linh trở thành một hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu về biến đổi môi trường. Nó được coi là giải pháp đặc biệt hiệu quả trong việc bảo tồn đa dạng sinh học, duy trì hệ sinh thái bền vững (Phạm Huỳnh Phương, Hoàng Cầm 2013, 145).
Thực tế ở Việt Nam và nhiều quốc gia khác trên thế giới đã chứng minh vai trò của tôn giáo, tín ngưỡng trong việc bảo tồn môi trường tự nhiên tránh sự tàn phá của con người. Reed L. Wedley và Carol J. Pierce Colfer (2004) đã khảo cứu và lột tả vai trò của tín ngưỡng bản địa trong việc bảo tồn các khu rừng thiêng ở vùng Tây bán đảo Kalimantan, Indonesia (Phạm Huỳnh Phương, Hoàng Cầm 2013, 145). Theo hai tác giả này sự thiêng hóa một số khu rừng ở đây có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn các loài động vật, đa dạng sinh học thông qua việc tạo dựng các quy ước cộng đồng trong việc khai thác các nguồn tài nguyên từ rừng, cụ thể thông qua săn bắn, hái lượm và canh tác (Phạm Huỳnh Phương, Hoàng Cầm 2013, 145).
Đối với cộng đồng người Khmer Nam Bộ, sinh thái học Phật giáo Theravada đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường tự nhiên xung quanh chùa chiền và địa bàn cư trú của người Khmer. Sinh thái học Phật giáo Theravada dựa trên nền tảng triết lý của nhà Phật cùng kết hợp nhuần nhuyễn với tín ngưỡng dân gian thông qua vai trò giáo dục cộng đồng của tầng lớp sư sãi. Phật giáo Theravada đã sử dụng hình thức thiêng hóa các yếu tố môi trường liên quan trực đến đời sống của con người và hoạt động sản xuất nông nghiệp bằng những nghi thức, truyền thuyết và Phật thoại. Quan niệm của Phật giáo Theravada xem môi trường là ngôi nhà chung cho sự sống của vạn vật và muôn loài, các yếu tố môi trường như cây cối, đất đai, nguồn nước và không trung đều do chư thiên cai quản. Việc nghiêm cấm lạm sát các loài sinh vật và tránh làm bẩn nguồn nước là hai trong số những quy ước của Phật giáo Theravada trong khuyến khích người tín đồ bảo vệ môi trường thiên nhiên. Luật nhân quả (Karma) đã được Phật giáo Theravada áp dụng trong công tác truyền bá tư tưởng về lối sống cân bằng giữa con người với các loài vật và môi trường tự nhiên đã tạo nên sự phát triển bền vững cho nhiều vùng sinh thái xung quanh nhà chùa tại các tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng. Theo quan điểm sinh thái văn hóa (cultural ecology) của nhà nhân học Mỹ Julian Steward sinh thái văn hóa là cách con người sử dụng văn hóa để thích nghi với môi trường thiên nhiên cụ thể trong bối cảnh nền văn hóa của họ (Phan Thị Yến Tuyết 2010, 30). Các xã hội có công nghệ kỹ thuật càng thô sơ thì xã hội càng phụ thuộc vào tự nhiên. Từ quan điểm của Julian Steward, chúng ta có thể thấy xã hội của người Khmer Nam Bộ không thuộc xã hội công nghệ hiện đại nên rất thích hợp với phương thức bảo vệ môi trường theo phương thức sinh thái học Phật giáo Theravada. Cụ thể như những yếu thiên nhiên quan trọng đối với đời sống cộng đồng thường được họ thiêng hóa.
Bảo vệ nguồn nước nhìn từ quan điểm sinh thái học Phật giáo
Người Khmer là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước nên đối với họ nước là biểu trưng cho mạch sống thiêng liêng mà thần linh đã ban tặng cho con người. Nước được lưu giữ trong các dòng sông, những hồ nước thiêng (Baray) do các rắn thần Naga canh giữ và ban phát cho con người. Naga (Niek trong tiếng Khmer) là linh vật thân cận nhất của Đức Phật, nó xuất hiện trong suốt cuộc đời hành đạo và nhập diệt của ngài. Hình tượng rắn Naga ba đầu được người Khmer tin là con vật làm mưa của thần Phra In (Đế Thích/Indra) trên thiên giới.
Vì xem nước là nguồn sống thiêng liêng nên người Khmer Nam Bộ chỉ dựng nhà sàn trên mặt đất, quy định của cộng đồng nghiêm cấm việc dựng nhà hay làm chỗ cư trú trên đầu nguồn của các dòng sông và trên sông rạch. Nguyên tắc này nhằm để tránh việc làm bẩn nguồn nước sinh hoạt của cộng đồng. Người Khmer xem nước là thiêng liêng nên tục rẩy nước chúc phúc trong các nghi lễ của nhà chùa luôn được chú trọng nhằm cầu mong an lạc, thái bình, tai qua nạn khỏi cho Phật tử. Trong lễ cúng trăng (Ok Om Bok) hay lễ mừng năm mới (Chol Chnam Thmay), người Phật tử dùng nước thiêng tắm cho sư sãi và người lớn tuổi trong gia đình để tạ ơn Tam bảo cũng như tạ ơn đấng sinh thành.
Trong số các nghi thức của lễ cúng trăng (Ok Om Bok) diễn ra vào ngày 15 tháng 10 Âm lịch, đồng bào Khmer Nam Bộ luôn tổ chức đua ghe Ngo. Đây cũng là hành động tôn vinh nước gắn liền với sự tích về Đức Phật và các long thần Naga canh giữ cõi thủy cung. Bên cạnh nghi lễ thả đèn gió nhằm ý nghĩa tống tiễn mùa mưa và làm sạch không trung, nghi lễ thả đèn nước (Loi Phratip) cũng được đồng bào Khmer thực hiện nhằm mang ý tạ lỗi với nguồn nước vì trong cuộc sống con người đã vô tình làm ô uế nguồn nước. Trong lễ thả đèn gió và đèn nước nhiều bài tụng được ông Acha (pháp sư) đại diện cộng đồng đọc lên thể hiện việc tạ ơn mặt trăng, mặt đất, nguồn nước và cầu mong các vị thần thiên nhiên tha thứ lỗi lầm của con người (Phan Thị Yến Tuyết 2010, 29).
Sau bài tụng, người dân đưa đèn nước ra sông, suối, kênh rạch, ao hồ gần chùa rồi thả xuống nước. Như vậy, nghi thức thả đèn nước phản ánh ý nghĩa nhân văn cao đẹp của người Khmer Nam Bộ, thể hiện văn hóa ứng xử với nguồn nước, việc thiêng hóa nguồn nước góp phần tăng cường ý thức của người Phật tử trong việc bảo vệ nguồn sống của cộng đồng.
Bảo vệ đất đai nhìn từ quan điểm sinh thái học Phật giáo
Người Khmer quan niệm rằng đất đai xung quanh nhà chùa là đất thiêng, được cai quản bởi vị nữ thần mẹ đất Thorni Phra. Truyền thuyết mô tả bà là một nữ nhân xinh đẹp có thân thể duyên dáng với mái tóc dài óng ả biểu trưng cho sông suối trên mặt đất. Bà canh giữ vùng đất thiêng của nhà chùa được truyền thuyết kể rằng pháp lực của bà đã bảo vệ thành công đắc quả tu hành của Đức Phật qua hành động dùng đôi tay vắt mái tóc làm thành một dòng suối cuối trôi lũ âm binh của quỷ vương Mara. Trong 49 ngày thiền định để tìm chân lý cứu thế, có một lần Đức Phật bị ba người con gái của Mara đến khuyến dụ bằng nhan sắc và các vũ điệu dâm ô nên ngài đã nhờ nữ thần Thorni Phra chứng quả bằng cách trỏ ngón tay xuống đất. Hình tượng nữ thần đất Thorni Phra thường được dựng trên ngôi tháp đầu tiên nằm đối diện với chánh điện (Vihara) nhằm để canh gác đất đai cho nhà chùa và chứng nhận đắc quả của Đức Phật như trường hợp điêu khắc tại chùa Campasala (chùa Phướng) thành phố Trà Vinh.
Vì quan niệm đất đai của nhà chùa là đất thiêng nên trong cuộc sống người Khmer luôn tránh mọi xâm hại đến đất đai của nhà chùa bằng bất cứ hình thức nào. Ở những ngôi chùa có người Khmer sống xung quanh như trường hợp của chùa Quy Nông thuộc huyện Châu Thành tỉnh Trà Vinh. Chúng tôi thấy Phật tử khi dựng nhà luôn giữ một khoảng cách không gian tách biệt với phần đất của nhà chùa để trong cuộc sống tránh làm ô ế đến đất thiêng hay gây ồn ào làm ảnh hưởng đến cuộc sống tu hành của sư sãi. Người sống quanh chùa luôn tự thân ý thức về vấn đề vệ sinh như không rả rác, xây nhà vệ sinh, xây chuồng gia súc, gia cầm hoặc đào đường thoát nước hướng về phần đất của nhà chùa. Họ cũng không bao giờ săn bắt các loại động vật, chim chóc sống trong khuôn viên của vùng đất thiêng. Theo quan niệm của Phật tử Khmer nếu làm hại đến đất đai hay săn đuổi thú vật đang cư ngụ quanh chùa thì người sống sẽ gặp phải những tai ương trong cuộc đời, còn người chết sẽ không lên được cõi Niết Bàn (Niek Phan), tức con người sẽ phải trả giá cho mọi hành động tốt xấu của mình gọi chung là Nghiệp báo (Karma). Tất cả mọi hành vi tốt xấu của trong ứng xử với đất đai sẽ được nữ thần đất quy chứng cũng như Đức Phật cũng nhờ nàng chứng quả cho mình khi ngài bị đám con gái của Mara quấy phá.
Xuất phát từ quan điểm tôn giáo, nên việc bảo vệ đất đai và những thành quả của nhà chùa luôn được Phật tử xem trọng. Trong quá trình nhiều năm thực địa tại những địa phương của tỉnh Trà Vinh có đông người Khmer sinh sống như huyện Trà Cú, Cầu Kè, Cầu Ngang và Châu Thành, chúng tôi chưa bao giờ chứng kiến hay nghe kể về trường hợp một Phật tử Khmer nào đó đã chiếm dụng đất đai của nhà chùa làm chỗ ở như hoàn cảnh của một vài ngôi chùa Việt ở các thành phố hay thị trấn trên cả nước.
Bảo vệ cây cối nhìn từ quan điểm sinh thái học Phật giáo
Ngoài đất đai, cây cối trong khuôn viên chùa cũng là đối tượng được bảo vệ nghiêm ngặt về mặt tâm linh. Xuất phát từ thuyết vũ trụ luận của Phật giáo Theravada xem ngôi chùa là biểu tượng của ngọn Tudi sơn, là trung tâm của Tam giới, nơi mà Đức Phật đang hạnh trì thuyết pháp. Bao quanh ngọn Tudi sơn là khu rừng thần Himaphan, dùng làm nơi tu hành lý tưởng của 18 vị La Hán (Arhat) và những loài linh vật nhiều quyền năng.
Do vậy, xung quanh ngôi chùa là cảnh quan của khu rừng Himaphan nên phải để cho cây cối mọc tự nhiên hoặc đôi khi các vị sư sãi đã trồng thêm một số loại cây quý cho đẹp mắt hay dùng cho mục đích sau này lấy gỗ trùng tu lại ngôi chùa. Theo quan niệm của người Khmer, cây to là nơi ở của thần, những siêu linh, Chằn và linh hồn người quá cố. Người Khmer theo tục hỏa thiêu, những lò thiêu xác dựng ngay trong khuôn viên của nhà chùa. Khi thân xác thành tro bụi, linh hồn được tin là sẽ bay lên cư ngụ trên các tán cây, hàng ngày họ phải thức dậy nghe kinh và hưởng phước từ việc cúng dường chư tăng ở những người thân còn sống. Linh hồn người chết không bao giờ dám đến chánh điện vì nơi đó được trấn giữ bởi Tám vị đại thần linh thần thông quản đại có tên gọi chung là Hộ Thế Bát Phương Thiên (Dikpalaka trong Bà La Môn giáo). Hộ thế bát phương thiên là tín ngưỡng về tám vị thần trấn trị bốn phương tám hướng để bảo vệ ngọn Tudi sơn trên thiên giới của Phật giáo Theravada. Bất kỳ một siêu linh nào dù có pháp lực mạnh đến đâu cũng không thể chống nổi uy lực của tám vị thiên vương này. Trong kiến trúc chùa Khmer, Hộ thế bát phương thiên được thể hiện bằng tám trụ giới Sima bao quanh chánh điện, đánh dấu biên giới của cõi thiên giới nơi mà linh hồn không thể đi vào. Như vậy, do quan niệm tâm linh về chỗ cư trú của linh hồn và những thần linh cấp thấp nên Phật tử Khmer đến chùa chủ yếu với mục đích thỉnh pháp của chư tăng, chiêm bái Đức Phật và thư giản với cảnh quan môi trường của nhà chùa, không ai trong số họ dám tàn phá cây cối dù là hành vi bẻ một cành cây hay một đóa hoa. Điều này hoàn toàn khác với thói quen hái hoa, bẻ cành tại các ngôi chùa và những cơ sở tín ngưỡng của cộng đồng người Việt theo tục xin lộc đầu năm lấy hên. Chính thói quen này góp phần vào việc tàn phá môi trường sinh thái xung quanh những ngôi chùa Việt tại những thành phố lớn và thị xã. Có thể nói quan điểm tâm linh kết hợp với những việc làm thiết thực của Phật giáo Theravada đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ môi trường cảnh quan, nhất là cảnh quan xung quanh nhà chùa. Sự tiếp nối của công việc bảo tồn thiên nhiên luôn được duy trì qua nhiều đời sư cả đã tạo dựng nên một cảnh quan vô cùng đẹp mắt ở những ngôi chùa Khmer tọa lạc tại thành phố Trà Vinh và Sóc Trăng. Mặc dù nằm giữa thành phố và phải chịu áp lực của công cuộc đô thị hóa, nhưng các chùa Khmer tồn tại như những khu bảo tồn thiên nhiên giữa những khu phố tấp nập đông người. Ý thức tạo dựng cảnh quan môi trường cùng với việc cấm sát sinh của giáo luật đã làm cho khuôn viên nhà chùa trở thành nơi cư trú lý tưởng cho các loài chim, dơi, côn trùng và muôn vật như trường hợp của chùa Hang tại huyện Châu Thành. Hay sự hoà quyện giữa công trình kiến trúc cổ với môi cảnh tuyệt đẹp của những rừng cây đại thụ như di tích chùa Angkor Borei Raja (chùa Âng) và chùa Samrong Ek. Xét về mặt di sản, những ngôi chùa Khmer mà chúng tôi khảo sát đều đạt được những tiêu chí theo quy định của ngành văn hóa về không gian môi trường, khu vực bảo vệ và đặc trưng kiến trúc của di tích.
Nghệ thuật tạo hình nhìn từ quan điểm sinh thái học Phật giáo
Vấn đề tạo dựng không gian nghệ thuật của các ngôi chùa Phật giáo Theravada luôn được chú trọng nhằm giáo dục tín đồ về tình yêu thiên nhiên và việc tôn trọng sự sống của muôn loài. Nghệ thuật tạo hình trong các ngôi chùa Phật giáo Theravada đã thể hiện môi trường bằng các loại hình hoa cỏ, cây cối và muôn thú. Những loài cây và hoa được dùng làm vật trang trí xung quanh bờ tường, hàng rào và trên bệ của các pho tượng Phật Thích Ca như những biểu tượng trường tồn của Phật giáo. Qua khảo sát năm ngôi chùa Khmer, chúng tôi thấy phổ biến với các loài hoa như sau: hoa sen biểu trưng cho sự giác ngộ của Đức Phật, hoa Sala biểu trưng cho Phật nhập diệt và cây Bồ Đồ (Boddhi) biểu trưng cho Phật thành đạo. Tuy chỉ có ba loài hoa và cây nhưng chúng được thể hiện cách điệu với hàng trăm mô típ nghệ thuật khác như thể hiện bằng nghệ thuật điêu khắc, hội họa, thể hiện cùng với Đức Phật, với chư thần, trang trí trên thân thể của linh vật, trên bờ tường, đế tháp, thể hiện đơn lẻ, thể hiện cách điệu với nhiều biến dạng khác nhau, tất cả tạo nên một bức tranh hoa cỏ vô cùng sinh động bao phủ ngôi chùa. Ngoài ra, điểm đặc sắc nhất của nghệ thuật Phật giáo Theravada là kiểu tranh bích họa (Mural painting) được vẽ trên chánh điện nhằm mô tả cuộc đời hành đạo của Đức Phật, từ lúc ngài đản sinh tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumpini) cho đến lúc Phật nhập diệt tại rừng Sala ở Câu Thi Na (Kusinagara). Các bức vẽ đều mô tả môi trường tự nhiên nơi Đức Phật đang ôm bát hóa duyên trên con đường làng đầy hoa cỏ hay ngồi thuyết pháp giữa những rừng cây cổ thụ được bản địa hóa từ cảnh quan của tỉnh Trà Vinh như Ao Bà Ôm theo cách hiểu của người Khmer.
Nghệ thuật tạo hình nhìn từ quan điểm sinh thái học Phật giáo
Vấn đề tạo dựng không gian nghệ thuật của các ngôi chùa Phật giáo Theravada luôn được chú trọng nhằm giáo dục tín đồ về tình yêu thiên nhiên và việc tôn trọng sự sống của muôn loài. Nghệ thuật tạo hình trong các ngôi chùa Phật giáo Theravada đã thể hiện môi trường bằng các loại hình hoa cỏ, cây cối và muôn thú. Những loài cây và hoa được dùng làm vật trang trí xung quanh bờ tường, hàng rào và trên bệ của các pho tượng Phật Thích Ca như những biểu tượng trường tồn của Phật giáo. Qua khảo sát năm ngôi chùa Khmer, chúng tôi thấy phổ biến với các loài hoa như sau: hoa sen biểu trưng cho sự giác ngộ của Đức Phật, hoa Sala biểu trưng cho Phật nhập diệt và cây Bồ Đồ (Boddhi) biểu trưng cho Phật thành đạo. Tuy chỉ có ba loài hoa và cây nhưng chúng được thể hiện cách điệu với hàng trăm mô típ nghệ thuật khác như thể hiện bằng nghệ thuật điêu khắc, hội họa, thể hiện cùng với Đức Phật, với chư thần, trang trí trên thân thể của linh vật, trên bờ tường, đế tháp, thể hiện đơn lẻ, thể hiện cách điệu với nhiều biến dạng khác nhau, tất cả tạo nên một bức tranh hoa cỏ vô cùng sinh động bao phủ ngôi chùa. Ngoài ra, điểm đặc sắc nhất của nghệ thuật Phật giáo Theravada là kiểu tranh bích họa (Mural painting) được vẽ trên chánh điện nhằm mô tả cuộc đời hành đạo của Đức Phật, từ lúc ngài đản sinh tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumpini) cho đến lúc Phật nhập diệt tại rừng Sala ở Câu Thi Na (Kusinagara). Các bức vẽ đều mô tả môi trường tự nhiên nơi Đức Phật đang ôm bát hóa duyên trên con đường làng đầy hoa cỏ hay ngồi thuyết pháp giữa những rừng cây cổ thụ được bản địa hóa từ cảnh quan của tỉnh Trà Vinh như Ao Bà Ôm theo cách hiểu của người Khmer.
Bên cạnh đó, linh vật là loại hình mô tả về sự sống của muôn loài và duyên giác ngộ của loài vật trong cõi Tam giới. Những linh vật trong chùa Khmer có thể chia làm ba loại: linh vật trên không gồm đại bàng Krut, tiên nữ nửa người nửa chim Kaynori, thiên nga Hamsa và chim công; linh vật trên mặt đất gồm voi thần Airavata, sử tử Simha, khỉ thần Hanuman và Gajasimha là linh vật nửa voi nửa sư tử; linh vật dưới nước gồm: cá sấu, thủy quái Makara và long thần Naga. Những linh vật trên được tin là đại diện cho muôn loài, chúng tu hành đắc quả nên được dựng tượng xung quanh nhà chùa để hộ trì Phật pháp. Khi Phật tử đến chùa thường chạm tay vào thân thể chúng rồi xoa lên đầu, thân thể hoặc xin dây Càtha có thẻ bài khắc hình ảnh của chúng để đeo trên cổ sẽ giúp họ tránh bị tà ma làm hại. Các linh vật cũng là vua của muôn loài, của thiên nhiên chúng sẽ bảo vệ cuộc sống của những loài vật sống trong khuôn viên hoặc xung quanh nhà chùa nên những ai săn bắn sẽ bị chúng trừng phạt. Các bức vẽ trên bờ tường phía sau bàn thờ Phật trong chánh điện chùa Ông Mẹt cho thấy cảnh địa ngục đọa dày những người khi còn sống đã săn bắn những loài vật có căn tu hành. Việc mô tả các loài linh vật xung quanh chánh điện của các ngôi chùa Phật giáo Theravada vừa biểu trưng cho tư tưởng từ bi xem muôn loài đều có Phật tính vừa là cách giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, tôn trọng sự sống của loài vật mà Phật giáo cho rằng chúng đều mang đến những lợi ích thiết thực cho cuộc sống của con người như long thần Naga làm mưa cứu nhân độ thế, Krut là mặt trời ban ánh sáng cho con người, voi giúp người chuyên chở và bảo vệ đất đai lãnh thổ mà con người sinh sống, cá sấu đâu lưng kế thành cầu cho nhà sư đi khất thực... Những truyền thuyết liên quan đến các loài vật nhằm giáo dục Phật tử về tự nhiên luôn mang đến lợi ích cho con người, ngược lại con người phải thể hiện tình yêu với tự nhiên, yêu thương và tôn trọng sự sống của muôn loài. Nếu con người tàn phá tự nhiên, săn đuổi tận diệt các loài vật vì mục đích kinh tế họ sẽ nhận lại những Nghiệp báo trong kiếp đời hiện tại hoặc tương lai.
Kết luận
Môi trường được phản ánh qua quan niệm tâm linh và Phật thoại đồng thời cũng thể hiện bằng những việc làm thiết thực để bảo vệ cây cối và muôn vật sinh sống trong khuôn viên của các ngôi chùa Phật giáo Theravada và trong phum sóc của cư dân Khmer Nam Bộ. Trong lĩnh vực mỹ thuật, các tác phẩm trang trí trong chùa luôn thể hiện các chủ đề liên quan đến cảnh quan môi trường như những biểu tượng điêu khắc, tranh vẽ tường, được giải thích bằng những truyền thuyết dân gian hay Phật thoại nói về các loài cây cỏ và linh vật. Tất cả nhằm giáo dục cho Phật tử về tình yêu thương muôi loài, tôn trọng tự nhiên và những gì thiên nhiên ban tặng cho con người. Phật giáo Theravada luôn nói đến Nghiệp báo (Karma) đang chờ đợi những ai không tôn trọng sự sống của muôn loài trong tự nhiên. Đó cũng là chính phương thức giáo dục sinh thái học tâm linh (Spiritual ecology) để con người sống thiện hơn, trách nhiệm hơn với cộng đồng và môi trường tự nhiên xung quanh họ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cao Huy Đỉnh (2003), Tìm hiểu văn hóa Ấn Độ (tác phẩm được giải thưởng Hồ Chí Minh), KHXH, Hà Nội.
Cao Xuân Phổ (1994), “Văn hóa biển Đông Nam Á”, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 04, Hà Nội.
Chân Nguyên và Nguyễn Tường Bách (1999), Tự điển Phật học, Thuận Hóa, Huế.
Châu Đạt Quan (1973), Chân Lạp phong thổ ký (Lê Hương dịch), Nguyên Thiều, Sài Gòn.
Chevalier Jean (1997), Tự điển biểu tượng văn hóa thế giới, Đà nẳng.
Durant Will (2002), Lịch sử văn minh Ấn Độ (Nguyễn Hiến Lê dịch), Văn hóa Thông tin.
Fisher Robert. E (2002), Mỹ thuật và kiến trúc Phật giáo (Huỳnh Ngọc Trảng dịch), Mỹ Thuật.
Geetesh Sharma (2012), Những dấu vết văn hóa Ấn Độ tại Việt Nam (Thích Minh Trí dịch), Văn hóa Nghệ thuật TP. HCM.
Lê Hương (1969), Người Việt gốc Miên, Thanh niên, Sài Gòn
Lê Hương (1974), Sử liệu Phù Nam, Thanh niên, Sài Gòn.
Lương Duy Thứ (cb), Phan Thu Hiền, Phan Nhật Chiêu (1996), Đại cương văn hóa Phương Đông, Giáo dục, Hà Nội.
Mai Ngọc Chừ (2001), Văn hóa Đông Nam Á, Đại học Quốc gia Hà Nội
Malleret L. (1959), Khảo cổ học Đồng bằng sông Cửu Long tập I (L’ Archéologie du delta de Mekong, Volume I), Bản dịch của Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam Hà Nội năm 1960.
Malleret L. (1959), Khảo cổ học Đồng bằng sông Cửu Long, tập II: Văn hóa vật chất ở Óc Eo (L’ Archéologie du delta de Mekong, volume II: La civilization matérielle d Óc Eo), Bản dịch của Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam Hà Nội năm 1970
Malleret L. (1962), Khảo cổ học Đồng bằng sông Cửu Long, tập II: Văn hóa vật chất ở Óc Eo (L’ Archéologie du delta de Mekong, volume III: La culture d Óc Eo), Bản dịch của Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam Hà Nội năm 1970
Ngô Đức Thịnh (1998), “Cái nhìn mới của các nhà nghiên cứu tôn giáo hiện nay”, Báo Thể thao văn hoá ngày 11-12.
Ngọc Anh (2002), Các hình thức thờ cúng của bộ lạc, Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
Phạm Huỳnh Phương, Hoàng Cầm 2013. Một số khuynh hướng lý thuyết nghiên cứu văn hóa và các hướng tiếp cận nghiên cứu văn hóa Việt Nam, (đề tài cấp bộ), Viện nghiên cứu văn hóa.
Phan Thị Yến Tuyết 2010. “Tâm thức ứng xử với nước của người Khmer qua lễ hội Ok Angbok – tiếp cận sinh thái văn hóa”, Tờ tin khoa học – Đại học Trà Vinh số 07, tháng 02 năm 2010.
Phan Thị Yến Tuyết 2012. “Tâm thức ứng xử với biển của người Khmer Nam Bộ qua lễ hội Phước Biển (Chroi Rumchek) – tiếp cận sinh thái văn hóa”, tạp chí khoa học xã hội, viện phát triển bền vững vùng Nam Bộ, tháng 04 năm 2012.
Phan Anh Tú (2004), “Truyền thuyết về rắn Naga trong văn hóa Khơ-me”, Tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 71, tháng 10, tr. 02 – 04.
Phan Anh Tú (2005), “Hình tượng rắn Naga trong văn hóa Ấn Độ giáo”, Tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 80 (2), tháng 7, tr. 13 – 16.
Phan Anh Tú (2005), “Nghệ thuật điêu khắc cổ Đông Dương”, Tạp chí Xưa Nay, số 238, tháng 06, tr. 55 - 60.
Phan Anh Tú (2006), “Quan hệ giữa sử thi Phả Đeng Nang Ay và truyền thuyết Pháya khăn khác (chúa Cóc) với lễ hội Bun Băng Phay của người Lào”, Kỷ yếu Hội thảo văn học Lào tháng 12, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, tr 36 - 42.
Phan Anh Tú (2013), Điêu khắc Hộ thế Bát phương thiên (Dikpalaka) từ Ấn Độ đến Đông Nam Á, Tạp chí Khoa học xã hội, số 10 (180).
Reid Anthony (2008), “Các vùng đất bên dưới luồng gió thổi” (Ngô Bắc dịch), website: Gio O. org.
Trần Kỳ Phương (2001), “Phù điêu Hộ thế bát phương thiên của đế chóp tháp Vân Trạch Hòa và hình tượng Hộ thế bát phương thiên trong điêu khắc Champa”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ số 3 (33), tr. 84 – 98, Sở KHCN và MT tỉnh Thừa Thiên Huế.
Trần Quốc Vượng (1989), “Tôn giáo và văn hoá”, Báo NCGVN Xuân Kỷ Tỵ.
Trần Thị Lý (1984), “Tượng Đức Phật ngồi trên rắn Naga trong điêu khắc Campuchia”, Tạp chí văn hóa dân gian số 03.
Trần Thị Lý (1991), Tượng tròn Campuchia, Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
Kết luận
Môi trường được phản ánh qua quan niệm tâm linh và Phật thoại đồng thời cũng thể hiện bằng những việc làm thiết thực để bảo vệ cây cối và muôn vật sinh sống trong khuôn viên của các ngôi chùa Phật giáo Theravada và trong phum sóc của cư dân Khmer Nam Bộ. Trong lĩnh vực mỹ thuật, các tác phẩm trang trí trong chùa luôn thể hiện các chủ đề liên quan đến cảnh quan môi trường như những biểu tượng điêu khắc, tranh vẽ tường, được giải thích bằng những truyền thuyết dân gian hay Phật thoại nói về các loài cây cỏ và linh vật. Tất cả nhằm giáo dục cho Phật tử về tình yêu thương muôi loài, tôn trọng tự nhiên và những gì thiên nhiên ban tặng cho con người. Phật giáo Theravada luôn nói đến Nghiệp báo (Karma) đang chờ đợi những ai không tôn trọng sự sống của muôn loài trong tự nhiên. Đó cũng là chính phương thức giáo dục sinh thái học tâm linh (Spiritual ecology) để con người sống thiện hơn, trách nhiệm hơn với cộng đồng và môi trường tự nhiên xung quanh họ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cao Huy Đỉnh (2003), Tìm hiểu văn hóa Ấn Độ (tác phẩm được giải thưởng Hồ Chí Minh), KHXH, Hà Nội.
Cao Xuân Phổ (1994), “Văn hóa biển Đông Nam Á”, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 04, Hà Nội.
Chân Nguyên và Nguyễn Tường Bách (1999), Tự điển Phật học, Thuận Hóa, Huế.
Châu Đạt Quan (1973), Chân Lạp phong thổ ký (Lê Hương dịch), Nguyên Thiều, Sài Gòn.
Chevalier Jean (1997), Tự điển biểu tượng văn hóa thế giới, Đà nẳng.
Durant Will (2002), Lịch sử văn minh Ấn Độ (Nguyễn Hiến Lê dịch), Văn hóa Thông tin.
Fisher Robert. E (2002), Mỹ thuật và kiến trúc Phật giáo (Huỳnh Ngọc Trảng dịch), Mỹ Thuật.
Geetesh Sharma (2012), Những dấu vết văn hóa Ấn Độ tại Việt Nam (Thích Minh Trí dịch), Văn hóa Nghệ thuật TP. HCM.
Lê Hương (1969), Người Việt gốc Miên, Thanh niên, Sài Gòn
Lê Hương (1974), Sử liệu Phù Nam, Thanh niên, Sài Gòn.
Lương Duy Thứ (cb), Phan Thu Hiền, Phan Nhật Chiêu (1996), Đại cương văn hóa Phương Đông, Giáo dục, Hà Nội.
Mai Ngọc Chừ (2001), Văn hóa Đông Nam Á, Đại học Quốc gia Hà Nội
Malleret L. (1959), Khảo cổ học Đồng bằng sông Cửu Long tập I (L’ Archéologie du delta de Mekong, Volume I), Bản dịch của Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam Hà Nội năm 1960.
Malleret L. (1959), Khảo cổ học Đồng bằng sông Cửu Long, tập II: Văn hóa vật chất ở Óc Eo (L’ Archéologie du delta de Mekong, volume II: La civilization matérielle d Óc Eo), Bản dịch của Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam Hà Nội năm 1970
Malleret L. (1962), Khảo cổ học Đồng bằng sông Cửu Long, tập II: Văn hóa vật chất ở Óc Eo (L’ Archéologie du delta de Mekong, volume III: La culture d Óc Eo), Bản dịch của Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam Hà Nội năm 1970
Ngô Đức Thịnh (1998), “Cái nhìn mới của các nhà nghiên cứu tôn giáo hiện nay”, Báo Thể thao văn hoá ngày 11-12.
Ngọc Anh (2002), Các hình thức thờ cúng của bộ lạc, Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
Phạm Huỳnh Phương, Hoàng Cầm 2013. Một số khuynh hướng lý thuyết nghiên cứu văn hóa và các hướng tiếp cận nghiên cứu văn hóa Việt Nam, (đề tài cấp bộ), Viện nghiên cứu văn hóa.
Phan Thị Yến Tuyết 2010. “Tâm thức ứng xử với nước của người Khmer qua lễ hội Ok Angbok – tiếp cận sinh thái văn hóa”, Tờ tin khoa học – Đại học Trà Vinh số 07, tháng 02 năm 2010.
Phan Thị Yến Tuyết 2012. “Tâm thức ứng xử với biển của người Khmer Nam Bộ qua lễ hội Phước Biển (Chroi Rumchek) – tiếp cận sinh thái văn hóa”, tạp chí khoa học xã hội, viện phát triển bền vững vùng Nam Bộ, tháng 04 năm 2012.
Phan Anh Tú (2004), “Truyền thuyết về rắn Naga trong văn hóa Khơ-me”, Tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 71, tháng 10, tr. 02 – 04.
Phan Anh Tú (2005), “Hình tượng rắn Naga trong văn hóa Ấn Độ giáo”, Tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 80 (2), tháng 7, tr. 13 – 16.
Phan Anh Tú (2005), “Nghệ thuật điêu khắc cổ Đông Dương”, Tạp chí Xưa Nay, số 238, tháng 06, tr. 55 - 60.
Phan Anh Tú (2006), “Quan hệ giữa sử thi Phả Đeng Nang Ay và truyền thuyết Pháya khăn khác (chúa Cóc) với lễ hội Bun Băng Phay của người Lào”, Kỷ yếu Hội thảo văn học Lào tháng 12, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, tr 36 - 42.
Phan Anh Tú (2013), Điêu khắc Hộ thế Bát phương thiên (Dikpalaka) từ Ấn Độ đến Đông Nam Á, Tạp chí Khoa học xã hội, số 10 (180).
Reid Anthony (2008), “Các vùng đất bên dưới luồng gió thổi” (Ngô Bắc dịch), website: Gio O. org.
Trần Kỳ Phương (2001), “Phù điêu Hộ thế bát phương thiên của đế chóp tháp Vân Trạch Hòa và hình tượng Hộ thế bát phương thiên trong điêu khắc Champa”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ số 3 (33), tr. 84 – 98, Sở KHCN và MT tỉnh Thừa Thiên Huế.
Trần Quốc Vượng (1989), “Tôn giáo và văn hoá”, Báo NCGVN Xuân Kỷ Tỵ.
Trần Thị Lý (1984), “Tượng Đức Phật ngồi trên rắn Naga trong điêu khắc Campuchia”, Tạp chí văn hóa dân gian số 03.
Trần Thị Lý (1991), Tượng tròn Campuchia, Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
Phan Anh Tú
Bài đăng tại tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 05 (131), 2014
Bài đăng tại tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 05 (131), 2014
Vui lòng gõ tiếng việt có dấu