Thứ Bảy 09 Tháng Mười Hai 2017 - 09:14:48 CH
Những điểm tương đồng về giá trị đoàn kết giữa Hồi giáo và Phật giáo
(PGVN) Nền văn hóa đa dạng và niềm tin tôn giáo của Malaysia là điều làm cho đất nước chúng ta trở thành một quốc gia độc đáo. Sự thống nhất là chìa khóa để phấn đấu ổn định, tiến bộ và phát triển cho bất kỳ quốc gia đa chủng tộc nào. Mặc dù sự hợp tác, thỏa hiệp và sự khoan dung giữa các chủng tộc là chất xúc tác cho những nỗ lực của Chính phủ để phát triển đất nước. Đây là điều cấp bách hiện tại và hơn bao giờ hết, khi chúng ta đi qua các tiêu đề liên quan đến các mối đe dọa khủng bố và bạo lực, ngay cả nước ta - và chúng ta chắc chắn không phải thoát khỏi những sự cố này.
Năm 2016, dân số ở Malaysia ước tính đạt 31 triệu người, bao gồm 92,7% dân số và 7,3% người không phải là công dân. Trong tổng dân số, 68,7% là người phi Malaysia Bumiputeras, trong đó Malay Bumiputeras tạo thành số lượng lớn ở mức 90,9% và 9% các chủng tộc Bumiputeras khác bao gồm Orang Asli, Siamese, Serani, cũng như các nhóm thiểu số Bumiputeras khác ở bán đảo Malaysia. Trong khi đó, Bumiputeras ở Đông Malaysia được công nhận là Bumiputeras Sabah và Bumiputeras Sarawak.
Có khoảng 23,4% tổng dân số của Trung Quốc, trong đó bao gồm Foochow, Hải Nam, Henghua, Hokkien, Quảng Đông, Hakka và Teochew. Cộng đồng Ấn Độ chiếm 7% tổng dân số; phần lớn là Tamil, sau đó là Malayali, Sikh Punjabi, Telugu... Mặc dù 0,9% dân số được xem là “những quốc tịch khác” chủ yếu là những người từ các khu vực châu Á và các khu vực khác trên thế giới, đã được cấp quốc tịch theo các điều khoản nhất định.
Theo thống kê của Bộ Thống kê Malaysia (Bản phân bố dân số năm 2010 và báo cáo đặc điểm nhân khẩu học cơ bản), dân số của Malaysia là 28.334.135 triệu người, là quốc gia đông dân thứ 42 trên thế giới. Dân số Myanmar bao gồm nhiều dân tộc. Năm 2010, các công dân Malaysia chiếm 91% dân số, trong đó Bumiputera là 67%. Theo giới thiệu Malaysia, họ là những tín đồ Hồi giáo thực hiện các phong tục và văn hóa Malaysia.
Họ đóng vai trò chi phối về mặt chính trị. Thân thế Bumiputera cũng được trao cho các dân tộc bản địa, trong đó có người Thái, người Khmer, người Chăm và dân tộc bản địa tại Sbah và Sarawak. Những người Bumiputera phi Malaysia chiếm hơn một nửa dân số bang Sarawak và hơn hai phần ba dân số bang Sabah. Các cộng đồng không phải Hồi giáo ở Malaysia bao gồm các tôn giáo Thiên Chúa giáo (9,2%), Phật giáo (19,8%), Hindu giáo (6,3%) và các tôn giáo khác (3,4%). Điều này làm cho Phật giáo đồ phần lớn là các công dân không phải Hồi giáo ở Malaysia.
Do đó, người Hồi giáo ở Malaysia hiểu được bản chất của giáo lý Phật đà và hiểu được những điểm tương đồng giữa các giá trị được chia sẻ giữa Phật giáo và Hồi giáo.
Danh xưng “Phật” có nghĩa là “Đấng Giác ngộ”, “Chính Đẳng Chính Giác”, “Toàn Giác”, không chỉ “Giác ngộ” mà còn có thể giáo hóa chúng sinh về những điều mình chứng ngộ và vị sáng lập “đạo Phật” là Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddharta Gautama).
Đạo Phật do đức Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni) sáng lập tại Ấn Độ cách đây hơn 2600 năm. Các nhà sử học hiện đại cho rằng đức Phật đản sinh vào ngày trăng tròn tháng Vesak vào khoảng năm 625 B.C.E, tại vườn Lumbini (Lâm Tỳ Ni). Ngài vốn là một hoàng tử, tên Siddhartha (Tất Đạt Đa), con trai duy nhất của vua Suddhodana (Tịnh Phạn) và hoàng hậu Sirimahamaya (Ma Da). Khi lớn lên, Ngài đã đính hôn với công chúa Yasodhara (Da Du Đà La) và sinh hạ một nam tử tên là Rahula (La Hầu La).
Sau khi nhận thấy rõ chân tướng khổ đau của kiếp người sinh lão bệnh tử, Ngài đã quyết tâm vượt cung thành để tìm chân lý. Trải qua năm năm tìm thầy học đạo, sáu năm khổ hạnh trong rừng già, sau cùng Ngài đã thành đạo dưới cội Bồ đề (bodhi tree) sau bốn mươi chín ngày thiền định. Kể từ đó, Ngài được gọi là Phật (Buddha) - con người đã giác ngộ, đã giải thoát vòng sinh tử luân hồi (samsāra). Sau khi giác ngộ, Ngài đã khởi sự truyền bá chánh pháp (Dharma) - giáo lý đưa đến sự giác ngộ, giải thoát - và xây dựng giáo đoàn Tăng già (Sangha) trong suốt bốn mươi chín năm. Ngài đã nhập Niết bàn (Nirvāna) vào năm tám mươi tuổi dưới tàng cây Sala, tại Kusinara, vào khoảng năm 543 B.C.E.
Ở đây, chúng ta có thể thấy những điểm tương đồng trong các giá trị chính của Phật giáo và giáo lý đạo Hồi:
1. Nguyên tắc công lý: Niềm tin rằng mỗi linh hồn đều có trách nhiệm sau này. Hồi giáo tin rằng các tội lỗi sẽ bị trừng phạt trong tương lai, tương tự như quy luật tự nhiên của nhân - quả, nghiệp báo luân hồi trong giáo lý Phật đà.
2. Niềm tin vào nghĩa vụ đạo đức căn bản và từ bi, yêu thương đối với tất cả chúng sinh.
3. Niềm tin vào nhu cầu tham gia vào việc thực hành tâm linh và hiệu quả của nó thông qua các phương tiện tu tập cầu nguyện, tụng kinh, trì chú, thiền định hay quán tưởng.
4. Niềm tin vào sự cần thiết phải tách mình ra khỏi thế giới tham vọng và theo đuổi dục vọng.
Hy vọng rằng người Malaysia quan tâm đến những giá trị tương tự của hai tôn giáo lớn của quốc gia Malaysia và tuân thủ bốn nền tảng chính – sự khoan dung; tôn trọng lẫn nhau; sự nhạy cảm và tin tưởng lẫn nhau - như là điểm tựa trong nối kết đoàn của tất cả chúng ta. Với điều này, chúng ta hãy cổ vũ kiến thức và hiểu biết, để hóa giải những thành kiến chủng tộc trong hy vọng của chúng ta để xây dựng một Malaysia hài hòa hơn.
Sự thống nhất hiện tại của chúng ta được xây dựng, dựa trên sự tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau. Tuy nhiên, cả hai có thể bị phá vỡ khi có sự kích động và khiêu khích từ những người có động cơ thầm kín như lợi ích chính trị nhỏ mọn.
Ngày nay, sự thống nhất giữa các chủng tộc ở đây đã dần dần biến mất và đang phải đối mặt với những thách thức do hành động của một số khu vực. Nếu chúng ta không đề cập đến vấn đề này, nếu không thận trọng, nó có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng, theo đó hòa bình và hòa hợp của đất nước chúng ta sẽ bị ảnh hưởng.
Ví dụ, những người không theo Hồi giáo, họ có thể liên kết với Hồi giáo cực đoan khủng bố, đặc biệt là giữa các vụ tấn công khủng bố bởi các nhóm Hồi giáo cực đoan và nhóm Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS); trong khi người Hồi giáo cực đoan có thể kết hợp với nhóm nhân danh chủ nghĩa dân tộc Phật giáo cực đoan với cuộc bức hại đối với người dân tộc thiểu số Rohingya ở Myanmar (Những điều hung ác ấy được nhân danh chủ nghĩa dân tộc Phật giáo Myanmar, vốn không thể nào kết nối được với lý tưởng của từ - bi - tâm). Quan điểm khuôn mẫu như vậy xảy ra do thiếu kiến thức và sự hiểu biết và không có bất kỳ nỗ lực để tìm kiếm thông tin mới. Kết quả là, một số cá nhân có xu hướng mù quáng tin vào những gì được các phương tiện truyền thông công bố, mà không có bất kỳ sự hiểu biết thực sự về tình hình thực tế.
Sự thận trọng này, sau đó sẽ dẫn đến những cá nhân vững vàng duy trì niềm tin của họ, đồng thời không quan tâm đến các giá trị tốt đẹp của các tôn giáo khác và thay vào đó nhấn mạnh vào sự khác biệt trong các giáo lý và hệ tư tưởng của nó.
Ngày nay, sự thống nhất giữa các chủng tộc ở đây đã dần dần biến mất và đang phải đối mặt với những thách thức do hành động của một số khu vực. Nếu chúng ta không đề cập đến vấn đề này, nếu không thận trọng, nó có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng, theo đó hòa bình và hòa hợp của đất nước chúng ta sẽ bị ảnh hưởng.
Ví dụ, những người không theo Hồi giáo, họ có thể liên kết với Hồi giáo cực đoan khủng bố, đặc biệt là giữa các vụ tấn công khủng bố bởi các nhóm Hồi giáo cực đoan và nhóm Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS); trong khi người Hồi giáo cực đoan có thể kết hợp với nhóm nhân danh chủ nghĩa dân tộc Phật giáo cực đoan với cuộc bức hại đối với người dân tộc thiểu số Rohingya ở Myanmar (Những điều hung ác ấy được nhân danh chủ nghĩa dân tộc Phật giáo Myanmar, vốn không thể nào kết nối được với lý tưởng của từ - bi - tâm). Quan điểm khuôn mẫu như vậy xảy ra do thiếu kiến thức và sự hiểu biết và không có bất kỳ nỗ lực để tìm kiếm thông tin mới. Kết quả là, một số cá nhân có xu hướng mù quáng tin vào những gì được các phương tiện truyền thông công bố, mà không có bất kỳ sự hiểu biết thực sự về tình hình thực tế.
Sự thận trọng này, sau đó sẽ dẫn đến những cá nhân vững vàng duy trì niềm tin của họ, đồng thời không quan tâm đến các giá trị tốt đẹp của các tôn giáo khác và thay vào đó nhấn mạnh vào sự khác biệt trong các giáo lý và hệ tư tưởng của nó.
Năm 2016, dân số ở Malaysia ước tính đạt 31 triệu người, bao gồm 92,7% dân số và 7,3% người không phải là công dân. Trong tổng dân số, 68,7% là người phi Malaysia Bumiputeras, trong đó Malay Bumiputeras tạo thành số lượng lớn ở mức 90,9% và 9% các chủng tộc Bumiputeras khác bao gồm Orang Asli, Siamese, Serani, cũng như các nhóm thiểu số Bumiputeras khác ở bán đảo Malaysia. Trong khi đó, Bumiputeras ở Đông Malaysia được công nhận là Bumiputeras Sabah và Bumiputeras Sarawak.
Có khoảng 23,4% tổng dân số của Trung Quốc, trong đó bao gồm Foochow, Hải Nam, Henghua, Hokkien, Quảng Đông, Hakka và Teochew. Cộng đồng Ấn Độ chiếm 7% tổng dân số; phần lớn là Tamil, sau đó là Malayali, Sikh Punjabi, Telugu... Mặc dù 0,9% dân số được xem là “những quốc tịch khác” chủ yếu là những người từ các khu vực châu Á và các khu vực khác trên thế giới, đã được cấp quốc tịch theo các điều khoản nhất định.
Theo thống kê của Bộ Thống kê Malaysia (Bản phân bố dân số năm 2010 và báo cáo đặc điểm nhân khẩu học cơ bản), dân số của Malaysia là 28.334.135 triệu người, là quốc gia đông dân thứ 42 trên thế giới. Dân số Myanmar bao gồm nhiều dân tộc. Năm 2010, các công dân Malaysia chiếm 91% dân số, trong đó Bumiputera là 67%. Theo giới thiệu Malaysia, họ là những tín đồ Hồi giáo thực hiện các phong tục và văn hóa Malaysia.
Họ đóng vai trò chi phối về mặt chính trị. Thân thế Bumiputera cũng được trao cho các dân tộc bản địa, trong đó có người Thái, người Khmer, người Chăm và dân tộc bản địa tại Sbah và Sarawak. Những người Bumiputera phi Malaysia chiếm hơn một nửa dân số bang Sarawak và hơn hai phần ba dân số bang Sabah. Các cộng đồng không phải Hồi giáo ở Malaysia bao gồm các tôn giáo Thiên Chúa giáo (9,2%), Phật giáo (19,8%), Hindu giáo (6,3%) và các tôn giáo khác (3,4%). Điều này làm cho Phật giáo đồ phần lớn là các công dân không phải Hồi giáo ở Malaysia.
Do đó, người Hồi giáo ở Malaysia hiểu được bản chất của giáo lý Phật đà và hiểu được những điểm tương đồng giữa các giá trị được chia sẻ giữa Phật giáo và Hồi giáo.
Danh xưng “Phật” có nghĩa là “Đấng Giác ngộ”, “Chính Đẳng Chính Giác”, “Toàn Giác”, không chỉ “Giác ngộ” mà còn có thể giáo hóa chúng sinh về những điều mình chứng ngộ và vị sáng lập “đạo Phật” là Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddharta Gautama).
Đạo Phật do đức Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni) sáng lập tại Ấn Độ cách đây hơn 2600 năm. Các nhà sử học hiện đại cho rằng đức Phật đản sinh vào ngày trăng tròn tháng Vesak vào khoảng năm 625 B.C.E, tại vườn Lumbini (Lâm Tỳ Ni). Ngài vốn là một hoàng tử, tên Siddhartha (Tất Đạt Đa), con trai duy nhất của vua Suddhodana (Tịnh Phạn) và hoàng hậu Sirimahamaya (Ma Da). Khi lớn lên, Ngài đã đính hôn với công chúa Yasodhara (Da Du Đà La) và sinh hạ một nam tử tên là Rahula (La Hầu La).
Sau khi nhận thấy rõ chân tướng khổ đau của kiếp người sinh lão bệnh tử, Ngài đã quyết tâm vượt cung thành để tìm chân lý. Trải qua năm năm tìm thầy học đạo, sáu năm khổ hạnh trong rừng già, sau cùng Ngài đã thành đạo dưới cội Bồ đề (bodhi tree) sau bốn mươi chín ngày thiền định. Kể từ đó, Ngài được gọi là Phật (Buddha) - con người đã giác ngộ, đã giải thoát vòng sinh tử luân hồi (samsāra). Sau khi giác ngộ, Ngài đã khởi sự truyền bá chánh pháp (Dharma) - giáo lý đưa đến sự giác ngộ, giải thoát - và xây dựng giáo đoàn Tăng già (Sangha) trong suốt bốn mươi chín năm. Ngài đã nhập Niết bàn (Nirvāna) vào năm tám mươi tuổi dưới tàng cây Sala, tại Kusinara, vào khoảng năm 543 B.C.E.
Nguyên tắc cơ bản của giáo lý đạo Phật là Tứ diệu đế: Nội dung cơ bản của Tứ diệu đế bao gồm bốn phần: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Ðạo đế.
1. Khổ đế:
Khổ đế là sự thật rõ ràng, là chân lý chắc chắn cho thấy tất cả nỗi khổ đau của mọi chúng sinh trên trần thế này đều phải gánh chịu, như sinh sống là có khổ, đau ốm là khổ, già nua là khổ, chết là khổ v.v… Những nỗi khổ ấy tràn ngập trên thế gian, trong cuộc sống của con người, của chúng sinh, làm cho chúng sinh chìm ngập trong nỗi khổ mênh mông như biển cả. Vì vậy đức Phật thường ví cuộc đời là một biển khổ mênh mông.
2. Tập đế:
Tập đế là chân lý chỉ rõ nguyên nhân nguồn gốc của thực trạng đau khổ ở trần gian. Tập có nghĩa là nhóm lại, gộp lại. Vì vậy tập đế còn có nghĩa là tập hợp những lý do vì đâu có những nỗi khổ ấy? Con người và chúng sinh nói chung thấy khổ, biết khổ trong cuộc sống của mình, nhưng thực ra không biết được nguyên nhân sâu xa gây ra nỗi khổ của mình. Đức Phật đã chỉ rõ: do vô minh che lấp nên người đời không nhận ra thực tướng của vạn vật mà cứ tham đắm chạy theo cái hư ảo nên tạo ra nghiệp. Đó là nguyên nhân của đau khổ.
3. Diệt đế:
Diệt đế là chân lý thực sự nói về về cảnh giới tốt đẹp mà chúng sinh đạt được khi đã diệt trừ những nỗi khổ cùng những nguyên nhân gây ra đau khổ và được giải thoát. Đó là sự chấm dứt khổ đau. Diệt tức là tịch diệt, nghĩa là không còn khổ lụy sinh tử luân hồi nữa. Khi đó liền chứng đắc được cảnh giới Niết bàn (Hữu dư Niết bàn). Khi xả bỏ huyễn thân, thân tứ đại không còn (chết, tịch, tịch diệt nay nhập Niết bàn), khi đó gọi là Vô dư Niết bàn. Diệt đế còn được gọi là Niết bàn.
4. Đạo đế:
Đạo đế là con đường, là phương pháp hữu hiệu để diệt trừ đau khổ. Đó là chân lý đưa đến cảnh giới Niết bàn. Hay nói khác đi, đó là những phương pháp đúng đắn đưa ta đến con đường diệt mọi đau khổ và để được an lạc. Trong phần nói về Đạo đế, đức Phật đã vạch ra con đường để mọi chúng sinh có thể đi theo để thoát khỏi những nỗi thống khổ và đến nơi an vui tự tại.
Tứ diệu đế là giáo lý căn bản của đạo Phật, không phải riêng đối với Tiểu thừa mà chung cho cả Ðại thừa nữa. Người tu hành muốn có một kết quả chắc chắn, không thể bỏ qua Tứ diệu đế được. Pháp môn này, tuy tiến chậm, nhưng khi tiến được bước nào là chắc bước nấy. Pháp môn này tuy không đưa thẳng người tu hành đến quả vị Phật, nhưng với một sự tinh tấn và quyết tâm nó có thể dễ dàng đưa người tu hành đến quả vị A La Hán. Rồi từ quả vị A La Hán, hành giả sẽ tu thêm một pháp môn khác của Ðại thừa, để tiến đến quả vị Phật.
Căn cơ nào, trình độ nào cũng có thể tu theo pháp môn này được, chứ không phải như một số pháp môn khác, phải cần có một trình độ học thức cao và một trí tuệ trên mức trung bình mới có thể theo được. Vì thế, nó là một pháp môn phổ thông cho cả hai phái Tiểu thừa lẫn Ðại thừa, Nam tông và Bắc tông. Ngày nay pháp môn này là pháp môn được phổ biến nhất trên thế giới. Các phật tử Âu Mỹ hầu hết đều tu theo pháp môn này là những tập sách nghiên cứu về đạo Phật, của những nhà Phật học tây phương đều nói nhiều nhất về Tứ diệu đế.
Nguyên tắc cơ bản của giáo lý của đức Phật là điều độ với bốn chân lý cao cả: (1) Tất cả mọi người không thể thoát khỏi Dukkha (đau khổ); (2) Dukkha phát sinh từ ham muốn hay ham muốn; (3) Dukkha có thể được khắc phục bằng cách vượt qua dục vọng; (4) Để chấm dứt Dukkha, người ta phải theo con đường Trung đạo hướng tới hạnh phúc vĩnh cửu (niết bàn).
1. Khổ đế:
Khổ đế là sự thật rõ ràng, là chân lý chắc chắn cho thấy tất cả nỗi khổ đau của mọi chúng sinh trên trần thế này đều phải gánh chịu, như sinh sống là có khổ, đau ốm là khổ, già nua là khổ, chết là khổ v.v… Những nỗi khổ ấy tràn ngập trên thế gian, trong cuộc sống của con người, của chúng sinh, làm cho chúng sinh chìm ngập trong nỗi khổ mênh mông như biển cả. Vì vậy đức Phật thường ví cuộc đời là một biển khổ mênh mông.
2. Tập đế:
Tập đế là chân lý chỉ rõ nguyên nhân nguồn gốc của thực trạng đau khổ ở trần gian. Tập có nghĩa là nhóm lại, gộp lại. Vì vậy tập đế còn có nghĩa là tập hợp những lý do vì đâu có những nỗi khổ ấy? Con người và chúng sinh nói chung thấy khổ, biết khổ trong cuộc sống của mình, nhưng thực ra không biết được nguyên nhân sâu xa gây ra nỗi khổ của mình. Đức Phật đã chỉ rõ: do vô minh che lấp nên người đời không nhận ra thực tướng của vạn vật mà cứ tham đắm chạy theo cái hư ảo nên tạo ra nghiệp. Đó là nguyên nhân của đau khổ.
3. Diệt đế:
Diệt đế là chân lý thực sự nói về về cảnh giới tốt đẹp mà chúng sinh đạt được khi đã diệt trừ những nỗi khổ cùng những nguyên nhân gây ra đau khổ và được giải thoát. Đó là sự chấm dứt khổ đau. Diệt tức là tịch diệt, nghĩa là không còn khổ lụy sinh tử luân hồi nữa. Khi đó liền chứng đắc được cảnh giới Niết bàn (Hữu dư Niết bàn). Khi xả bỏ huyễn thân, thân tứ đại không còn (chết, tịch, tịch diệt nay nhập Niết bàn), khi đó gọi là Vô dư Niết bàn. Diệt đế còn được gọi là Niết bàn.
4. Đạo đế:
Đạo đế là con đường, là phương pháp hữu hiệu để diệt trừ đau khổ. Đó là chân lý đưa đến cảnh giới Niết bàn. Hay nói khác đi, đó là những phương pháp đúng đắn đưa ta đến con đường diệt mọi đau khổ và để được an lạc. Trong phần nói về Đạo đế, đức Phật đã vạch ra con đường để mọi chúng sinh có thể đi theo để thoát khỏi những nỗi thống khổ và đến nơi an vui tự tại.
Tứ diệu đế là giáo lý căn bản của đạo Phật, không phải riêng đối với Tiểu thừa mà chung cho cả Ðại thừa nữa. Người tu hành muốn có một kết quả chắc chắn, không thể bỏ qua Tứ diệu đế được. Pháp môn này, tuy tiến chậm, nhưng khi tiến được bước nào là chắc bước nấy. Pháp môn này tuy không đưa thẳng người tu hành đến quả vị Phật, nhưng với một sự tinh tấn và quyết tâm nó có thể dễ dàng đưa người tu hành đến quả vị A La Hán. Rồi từ quả vị A La Hán, hành giả sẽ tu thêm một pháp môn khác của Ðại thừa, để tiến đến quả vị Phật.
Căn cơ nào, trình độ nào cũng có thể tu theo pháp môn này được, chứ không phải như một số pháp môn khác, phải cần có một trình độ học thức cao và một trí tuệ trên mức trung bình mới có thể theo được. Vì thế, nó là một pháp môn phổ thông cho cả hai phái Tiểu thừa lẫn Ðại thừa, Nam tông và Bắc tông. Ngày nay pháp môn này là pháp môn được phổ biến nhất trên thế giới. Các phật tử Âu Mỹ hầu hết đều tu theo pháp môn này là những tập sách nghiên cứu về đạo Phật, của những nhà Phật học tây phương đều nói nhiều nhất về Tứ diệu đế.
Nguyên tắc cơ bản của giáo lý của đức Phật là điều độ với bốn chân lý cao cả: (1) Tất cả mọi người không thể thoát khỏi Dukkha (đau khổ); (2) Dukkha phát sinh từ ham muốn hay ham muốn; (3) Dukkha có thể được khắc phục bằng cách vượt qua dục vọng; (4) Để chấm dứt Dukkha, người ta phải theo con đường Trung đạo hướng tới hạnh phúc vĩnh cửu (niết bàn).
Là Phật giáo đồ, từng bước thanh thản theo “Con đường Trung đạo” hướng đến an lạc hạnh phúc. “Con đường Trung đạo” này còn được gọi là “Bát Chánh Đạo”: 1. Chánh kiến; 2. Chánh tư duy; 3. Chánh ngữ; 4. Chánh nghiệp; 5. Chánh mạng; 6. Chánh tinh tấn; 7. Chánh niệm; 8. Chánh định.
1. Chánh kiến: Chánh là ngay thẳng, đúng đắn; Kiến là thấy, nhận biết. Chánh kiến hay Chánh tri kiến là thấy, nghe, hay, biết một cách ngay thẳng, công minh, đúng với sự thật khách quan. Người có chánh kiến thấy như thế nào thì nhận đúng như thế ấy, không lấy trắng làm đen, xấu làm tốt, dở làm hay, hay trái lại. Sự nhận xét sự vật của người ấy không bị tập quán, thành kiến, dục vọng ngăn che hay làm sai lạc.
Người có chánh kiến biết phân biệt cái nào giả, cái nào thật. Và khi đã biết cảnh giả, vật dối, thì mắt không chăm, tâm không chú; còn khi rõ biết cảnh vật thật, lời lẽ chân, thì chuyên tâm vào sự lý chân thật làm cho đèn huệ sáng ngời, tiền trần không phương che ám được.
Trong một khái niệm gọi là Tabayyun, Hồi giáo dạy tín đồ trong tầm quan trọng của việc xác định sự thật của bất kỳ niềm tin nào, trước khi tin tưởng và truyền bá nó.
2. Chánh tư duy: Tư duy là suy nghĩ, nghiệm xét; nó thuộc về ý thức. Chánh tư duy là suy nghĩ, xét nghiệm chân chánh, tư tưởng đúng với lẽ phải.
Người tu theo phép Chánh tư duy, thường xét nghĩ đạo lý cao siêu, suy tìm thể tánh nhiệm mầu, biết xét những hành vi lỗi lầm, những ý nghĩ xấu xa để sám hối; biết suy nghĩ về ba món vô lậu học: Giới, Ðịnh, Huệ, để tu giải thoát; biết suy xét vô minh và nguyên nhân đau khổ, là nguồn gốc của tội ác và tìm phương pháp đúng đắn để tu hành hầu giải thoát cho mình và cho người.
Chánh tư duy có thể dẫn đến sự hợp nhất, tình yêu trong sáng, tạo ra một sự liên kết giữa con người, không phụ thuộc vào chủng tộc, đẳng cấp và màu da.
3. Chánh ngữ: Ngữ là lời nói; Chánh ngữ là lời nói chân thật, công bình, ngay thẳng và hợp lý.
Người tu theo chánh ngữ, không bao giờ nói sai, không thiên vị, thấy dở nói hay, không xuyên tạc, nghe một đường nói một ngả. Người theo chánh ngữ rất thận trọng lời nói; trước khi muốn nói gì phải suy nghĩ coi có lợi ích và chân thật không. Xưa đức Khổng Tử vào viếng chốn cổ miếu, thấy bức tranh họa một hình người kẹp miệng ba lần, ngài dạy lại môn đệ phải cẩn thận lời nói.
Ngày xưa, trước khi đức Phật sắp nhập Niết bàn, có đệ tử hỏi:
- Bạch đức Thế Tôn, khi Phật nhập Niết bàn rồi, người đời sau gặp nhiều sách vở ngoại đạo không sao phân biệt với kinh Phật, như thế, biết tin theo lời nào tu?
Phật dạy:
- Chẳng luận là lời nói của ai miễn là lời ấy đúng sự thật, hợp chân lý thì cứ tin theo mà tu.
Vậy, phàm những lời nói đúng lý, hợp lẽ, có lợi ích cho toàn thể chúng sinh là chánh ngữ. Những lời nói ấy chúng ta phải tin theo và tập nói cho đúng như thế.
Theo lời của tiên tri Muhammad (PBUH): "Một người đàn ông có thể nói một từ mà không nghĩ đến ý nghĩa của nó, nhưng vì lý do đó, ông ta sẽ lao vào Hellfire xa hơn khoảng cách giữa đông và tây".
4. Chánh nghiệp: Nghiệp là do người Trung Hoa dịch chữ Phạn Karma mà ra. Nghiệp hay Karma nghĩa là hành động tạo tác. Chánh nghiệp là hành động, việc làm chân chính, đúng với lẽ phải, phù hợp với chân lý, có lợi ích con người lẫn vật.
Người theo đúng "chánh nghiệp" là người luôn luôn thận trọng, giữ gìn mọi hành động của mình, để khỏi làm tổn hại đến quyền lợi, nghề nghiệp, địa vị, danh giá, hạnh phúc, tính mạng của người khác. Hơn nữa người theo đúng chánh nghiệp bao giờ cũng tôn trọng lương tâm nghề nghiệp của mình, luôn luôn hành động có lợi ích cho mọi người, mọi vật; và nếu cần, có thể hy sinh quyền lợi hay tính mạng mình để giải thoát nỗi đau khổ cho người khác.
Ngoài ra cũng gọi là chánh nghiệp, khi dùng trí huệ để quán tưởng những pháp chân chính, hoặc ngồi Thiền, niệm Phật, hoặc trì tụng kinh hành, để giữ gìn thân, khẩu, ý ba nghiệp cho thanh tịnh.
Trong Hồi giáo, Chánh nghiệp cũng được khuyến khích và Tà nghiệp, một trong những điều răn tín đồ không nên tạo tác.
5. Chánh mạng: Mạng là sự sống, đời sống. Chánh mạng là sinh sống một cách chân chính bằng nghề nghiệp lương thiện, trong sạch của mình. Người theo đúng Chánh mạng sống một cuộc đời ngay thật, không gian tham, không làm giàu trên mồ hôi, nước mắt của người khác, không làm cho người và vật phải đau khổ vì nghề nghiệp của mình. Người theo đúng Chánh mạng sống một cuộc đời có ý nghĩa lợi mình, lợi người, xứng với bát cơm mình ăn không, manh áo mình mặc chứ không ăn không ngồi rồi, sống bám vào người khác.
Người theo Chánh mạng sống đúng Chánh pháp, không mê tín dị đoan và biết thân tứ đại vốn vô thường, nên lấy tịnh giới làm thể, lấy trí huệ làm mạng, bỏ niệm vọng cầu, an vui với chánh pháp.
Điều này giống như các mà Hồi giáo nhấn mạnh đến việc kiếm sống Halal, không chỉ tập trung vào khía cạnh thế giới mà còn phải thực hành phương pháp tiếp cận tâm linh và toàn diện. Điều này bao gồm việc tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, để dễ dàng cho người khác và làm những điều hữu ích cho nhau.
6. Chánh tinh tấn: Chữ tinh tấn ở đây cũng cùng nghĩa như tinh tấn đã nói trong bài trước, nghĩa là chuyên cần, siêng năng, thẳng tiến mục đích đã vạch sẵn không vì một lý do gì mà lùi bước. Chánh tinh tấn là chuyên cần, siêng năng làm việc chánh nghĩa, lợi lạc cho mình cũng như cho người và vật.
Người theo đúng Chánh tinh tấn, trước tiên, bao giờ cũng hăng hái sửa mình, cương quyết bài trừ những điều ác, quyết tâm phát triển mọi hạnh lành (xem bài Tứ Chánh cần). Người theo đúng Chánh tinh tấn, dũng mãnh tiến lên trên đường đi đến giải thoát, cho đến lúc nào đạt được mục đích cao cả, cùng tột ấy mới thôi (xem đoạn "Tấn căn" trong bài Ngũ căn).
Nói tóm lại, người theo đúng Chánh tinh tấn, quyết tạo nghiệp vô lậu xuất thế gian, lấy chánh trí làm mãnh lực, lấy Niết bàn làm chỗ quy hướng, một lòng chẳng trễ, muôn kiếp không rời, quyết công phu, định thành đạo quả để trước tự độ, sau hóa độ chúng sinh.
Tương tự như giáo lý và các giá trị Hồi giáo, nếu chúng ta nghiêm túc trong việc thực hiện bất kỳ công việc và đặt trong nỗ lực hướng đến sự tốt lành, nó sẽ giúp cho chúng ta viễn ly ác nghiệp và loại bỏ những xấu xa, đê hèn, cố chấp, ích kỷ, bảo thủ, định kiến...
7. Chánh niệm: Niệm là ghi nhớ (cũng như nghĩa chữ niệm ở các bài trước). Chánh niệm là ghi nhớ đến những điều hay lẽ phải, những điều lợi lạc cho mình cho người, những đạo lý chân chính quý trọng cao siêu.
Chánh niệm có hai phần:
a) Chánh ức niệm: là nghĩ nhớ đến các điều lỗi lầm để thành tâm sám hối và nghĩ nhớ đến Tứ trọng ân: ân cha mẹ, ân tổ quốc, ân chúng sinh và ân Tam bảo để lo báo đền.
b) Chánh quán niệm: là dùng tâm từ bi xét nghĩ cuộc đời là khổ não, tật bệnh, mê mờ mà chúng sinh đang mắc phải, để mở rộng lòng thương yêu và quyết ra tay cứu độ.
Người theo đúng Chánh niệm, thường quán sát cảnh chân đế, năng tưởng niệm các pháp trợ đạo; bất luận ở đâu và làm gì, cũng nhớ nghĩ đến cái quả vô lậu xuất thế gian, dù trải qua bao nhiêu số kiếp cũng không thối tâm xao lãng.
Tín đồ Hồi giáo luôn chú ý, định thần để gây thiện nghiệp trong mỗi ý nghĩ, lời nói và hành động.
8. Chánh định: Chữ "Ðịnh" ở đây cũng đồng nghĩa như chữ định trong các bài trước, nghĩa là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì, để thấy cho rõ ràng. Chánh định là tập trung tư tưởng vào một vấn đề chính đáng, đúng với chân lý, có lợi ích cho mình và người.
Người theo đúng Chánh định, thường tập trung tư tưởng để quan sát những vấn đề chính sau đây:
- Quán thân bất tịnh: (bất tịnh quán) túc là quán tưởng thân không thanh tịnh, để trừ tham dục, sai ái (xem lại đoạn: "quán thân bất tịnh" trong bài Tứ niệm xứ).
- Quán từ bi: (từ bi quán) là quán tưởng tất cả chúng sinh đều là một chân tâm, bình đẳng không khác, để đoạn trừ thù hận và mở rộng lòng thương yêu để cứu độ chúng sinh.
- Quán nhân duyên: (nhân duyên quán) là quán tưởng tất cả pháp hữu hình như muôn vật, vô hình như tâm niệm đều là giả hợp, duyên nhau mà có, chứ không có một cách chân thật, không trường tồn, để đoạn trừ ngu si, pháp chấp.
- Quán giới phân biệt: (giới phân biệt quán) nghĩa là phân biệt và quán tưởng sự giả hợp của 18 giới: 6 căn, 6 trần, 6 thức để thấy không thật có "ngã, pháp" ngõ hầu diệt trừ ngã chấp, pháp chấp.
- Quán hơi thở: (sổ tức quán) nghĩa là quán tưởng bằng cách chuyên chú đếm hơi thở ra vào, để đổi trị sự tán loạn của tâm thức.
Trong giáo lý đạo Hồi, điều này liên quan đến sự tâp trung hết sức vào việc thờ phụng, lễ bái.
Những tư tưởng tích cực như vậy (Husnuzon) cũng là một khái niệm rất quan trọng trong đạo Hồi. Và cũng vậy với sự hợp nhất, tình yêu và tình huynh đệ giữa những người đồng loại. Nó phù hợp với lập trường của Hồi giáo, như là một tôn giáo mang lại phúc lành và thịnh vượng cho toàn thể nhân loại.
“Con đường Trung đạo” là về sự điều độ, giữa sự nuông chiều và tự hiến; tương tự như khái niệm Wasatiyyah (sự ôn hòa, cân bằng. Tinh thần của sự ôn hòa đã tạo nên đất nước Malaysia hôm nay, là chìa khóa để vượt qua những thách thức phải đối mặt trong khu vực), cũng là nền tảng của giáo lý đạo Hồi và đã được áp dụng trong khái niệm Malaysia.
Trong câu 29 của Surah Al Isara, Thánh Allah nói: “Hãy đừng làm cho bàn tay quý vị bị bóp cổ, hoặc hoàn toàn kéo dài nó và do đó bị đổ lỗi và mất khả năng thanh toán. Đừng để bàn tay của quý vị bị trói vào cổ của quý vị, hoặc kéo dài nó lên đến mức tối đa (như sự tiêu xài), để quý vị trở nên đáng tội lỗi và trong cảnh đói nghèo trầm trọng”.
Tiên tri Muhammad (PBUH) trong Hadith được kể lại bởi Imam Tirmizi, theo báo cáo cho biết: “Ngoài sự khiêm tốn không mang lại gì tốt”.
1. Chánh kiến: Chánh là ngay thẳng, đúng đắn; Kiến là thấy, nhận biết. Chánh kiến hay Chánh tri kiến là thấy, nghe, hay, biết một cách ngay thẳng, công minh, đúng với sự thật khách quan. Người có chánh kiến thấy như thế nào thì nhận đúng như thế ấy, không lấy trắng làm đen, xấu làm tốt, dở làm hay, hay trái lại. Sự nhận xét sự vật của người ấy không bị tập quán, thành kiến, dục vọng ngăn che hay làm sai lạc.
Người có chánh kiến biết phân biệt cái nào giả, cái nào thật. Và khi đã biết cảnh giả, vật dối, thì mắt không chăm, tâm không chú; còn khi rõ biết cảnh vật thật, lời lẽ chân, thì chuyên tâm vào sự lý chân thật làm cho đèn huệ sáng ngời, tiền trần không phương che ám được.
Trong một khái niệm gọi là Tabayyun, Hồi giáo dạy tín đồ trong tầm quan trọng của việc xác định sự thật của bất kỳ niềm tin nào, trước khi tin tưởng và truyền bá nó.
2. Chánh tư duy: Tư duy là suy nghĩ, nghiệm xét; nó thuộc về ý thức. Chánh tư duy là suy nghĩ, xét nghiệm chân chánh, tư tưởng đúng với lẽ phải.
Người tu theo phép Chánh tư duy, thường xét nghĩ đạo lý cao siêu, suy tìm thể tánh nhiệm mầu, biết xét những hành vi lỗi lầm, những ý nghĩ xấu xa để sám hối; biết suy nghĩ về ba món vô lậu học: Giới, Ðịnh, Huệ, để tu giải thoát; biết suy xét vô minh và nguyên nhân đau khổ, là nguồn gốc của tội ác và tìm phương pháp đúng đắn để tu hành hầu giải thoát cho mình và cho người.
Chánh tư duy có thể dẫn đến sự hợp nhất, tình yêu trong sáng, tạo ra một sự liên kết giữa con người, không phụ thuộc vào chủng tộc, đẳng cấp và màu da.
3. Chánh ngữ: Ngữ là lời nói; Chánh ngữ là lời nói chân thật, công bình, ngay thẳng và hợp lý.
Người tu theo chánh ngữ, không bao giờ nói sai, không thiên vị, thấy dở nói hay, không xuyên tạc, nghe một đường nói một ngả. Người theo chánh ngữ rất thận trọng lời nói; trước khi muốn nói gì phải suy nghĩ coi có lợi ích và chân thật không. Xưa đức Khổng Tử vào viếng chốn cổ miếu, thấy bức tranh họa một hình người kẹp miệng ba lần, ngài dạy lại môn đệ phải cẩn thận lời nói.
Ngày xưa, trước khi đức Phật sắp nhập Niết bàn, có đệ tử hỏi:
- Bạch đức Thế Tôn, khi Phật nhập Niết bàn rồi, người đời sau gặp nhiều sách vở ngoại đạo không sao phân biệt với kinh Phật, như thế, biết tin theo lời nào tu?
Phật dạy:
- Chẳng luận là lời nói của ai miễn là lời ấy đúng sự thật, hợp chân lý thì cứ tin theo mà tu.
Vậy, phàm những lời nói đúng lý, hợp lẽ, có lợi ích cho toàn thể chúng sinh là chánh ngữ. Những lời nói ấy chúng ta phải tin theo và tập nói cho đúng như thế.
Theo lời của tiên tri Muhammad (PBUH): "Một người đàn ông có thể nói một từ mà không nghĩ đến ý nghĩa của nó, nhưng vì lý do đó, ông ta sẽ lao vào Hellfire xa hơn khoảng cách giữa đông và tây".
4. Chánh nghiệp: Nghiệp là do người Trung Hoa dịch chữ Phạn Karma mà ra. Nghiệp hay Karma nghĩa là hành động tạo tác. Chánh nghiệp là hành động, việc làm chân chính, đúng với lẽ phải, phù hợp với chân lý, có lợi ích con người lẫn vật.
Người theo đúng "chánh nghiệp" là người luôn luôn thận trọng, giữ gìn mọi hành động của mình, để khỏi làm tổn hại đến quyền lợi, nghề nghiệp, địa vị, danh giá, hạnh phúc, tính mạng của người khác. Hơn nữa người theo đúng chánh nghiệp bao giờ cũng tôn trọng lương tâm nghề nghiệp của mình, luôn luôn hành động có lợi ích cho mọi người, mọi vật; và nếu cần, có thể hy sinh quyền lợi hay tính mạng mình để giải thoát nỗi đau khổ cho người khác.
Ngoài ra cũng gọi là chánh nghiệp, khi dùng trí huệ để quán tưởng những pháp chân chính, hoặc ngồi Thiền, niệm Phật, hoặc trì tụng kinh hành, để giữ gìn thân, khẩu, ý ba nghiệp cho thanh tịnh.
Trong Hồi giáo, Chánh nghiệp cũng được khuyến khích và Tà nghiệp, một trong những điều răn tín đồ không nên tạo tác.
5. Chánh mạng: Mạng là sự sống, đời sống. Chánh mạng là sinh sống một cách chân chính bằng nghề nghiệp lương thiện, trong sạch của mình. Người theo đúng Chánh mạng sống một cuộc đời ngay thật, không gian tham, không làm giàu trên mồ hôi, nước mắt của người khác, không làm cho người và vật phải đau khổ vì nghề nghiệp của mình. Người theo đúng Chánh mạng sống một cuộc đời có ý nghĩa lợi mình, lợi người, xứng với bát cơm mình ăn không, manh áo mình mặc chứ không ăn không ngồi rồi, sống bám vào người khác.
Người theo Chánh mạng sống đúng Chánh pháp, không mê tín dị đoan và biết thân tứ đại vốn vô thường, nên lấy tịnh giới làm thể, lấy trí huệ làm mạng, bỏ niệm vọng cầu, an vui với chánh pháp.
Điều này giống như các mà Hồi giáo nhấn mạnh đến việc kiếm sống Halal, không chỉ tập trung vào khía cạnh thế giới mà còn phải thực hành phương pháp tiếp cận tâm linh và toàn diện. Điều này bao gồm việc tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, để dễ dàng cho người khác và làm những điều hữu ích cho nhau.
6. Chánh tinh tấn: Chữ tinh tấn ở đây cũng cùng nghĩa như tinh tấn đã nói trong bài trước, nghĩa là chuyên cần, siêng năng, thẳng tiến mục đích đã vạch sẵn không vì một lý do gì mà lùi bước. Chánh tinh tấn là chuyên cần, siêng năng làm việc chánh nghĩa, lợi lạc cho mình cũng như cho người và vật.
Người theo đúng Chánh tinh tấn, trước tiên, bao giờ cũng hăng hái sửa mình, cương quyết bài trừ những điều ác, quyết tâm phát triển mọi hạnh lành (xem bài Tứ Chánh cần). Người theo đúng Chánh tinh tấn, dũng mãnh tiến lên trên đường đi đến giải thoát, cho đến lúc nào đạt được mục đích cao cả, cùng tột ấy mới thôi (xem đoạn "Tấn căn" trong bài Ngũ căn).
Nói tóm lại, người theo đúng Chánh tinh tấn, quyết tạo nghiệp vô lậu xuất thế gian, lấy chánh trí làm mãnh lực, lấy Niết bàn làm chỗ quy hướng, một lòng chẳng trễ, muôn kiếp không rời, quyết công phu, định thành đạo quả để trước tự độ, sau hóa độ chúng sinh.
Tương tự như giáo lý và các giá trị Hồi giáo, nếu chúng ta nghiêm túc trong việc thực hiện bất kỳ công việc và đặt trong nỗ lực hướng đến sự tốt lành, nó sẽ giúp cho chúng ta viễn ly ác nghiệp và loại bỏ những xấu xa, đê hèn, cố chấp, ích kỷ, bảo thủ, định kiến...
7. Chánh niệm: Niệm là ghi nhớ (cũng như nghĩa chữ niệm ở các bài trước). Chánh niệm là ghi nhớ đến những điều hay lẽ phải, những điều lợi lạc cho mình cho người, những đạo lý chân chính quý trọng cao siêu.
Chánh niệm có hai phần:
a) Chánh ức niệm: là nghĩ nhớ đến các điều lỗi lầm để thành tâm sám hối và nghĩ nhớ đến Tứ trọng ân: ân cha mẹ, ân tổ quốc, ân chúng sinh và ân Tam bảo để lo báo đền.
b) Chánh quán niệm: là dùng tâm từ bi xét nghĩ cuộc đời là khổ não, tật bệnh, mê mờ mà chúng sinh đang mắc phải, để mở rộng lòng thương yêu và quyết ra tay cứu độ.
Người theo đúng Chánh niệm, thường quán sát cảnh chân đế, năng tưởng niệm các pháp trợ đạo; bất luận ở đâu và làm gì, cũng nhớ nghĩ đến cái quả vô lậu xuất thế gian, dù trải qua bao nhiêu số kiếp cũng không thối tâm xao lãng.
Tín đồ Hồi giáo luôn chú ý, định thần để gây thiện nghiệp trong mỗi ý nghĩ, lời nói và hành động.
8. Chánh định: Chữ "Ðịnh" ở đây cũng đồng nghĩa như chữ định trong các bài trước, nghĩa là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì, để thấy cho rõ ràng. Chánh định là tập trung tư tưởng vào một vấn đề chính đáng, đúng với chân lý, có lợi ích cho mình và người.
Người theo đúng Chánh định, thường tập trung tư tưởng để quan sát những vấn đề chính sau đây:
- Quán thân bất tịnh: (bất tịnh quán) túc là quán tưởng thân không thanh tịnh, để trừ tham dục, sai ái (xem lại đoạn: "quán thân bất tịnh" trong bài Tứ niệm xứ).
- Quán từ bi: (từ bi quán) là quán tưởng tất cả chúng sinh đều là một chân tâm, bình đẳng không khác, để đoạn trừ thù hận và mở rộng lòng thương yêu để cứu độ chúng sinh.
- Quán nhân duyên: (nhân duyên quán) là quán tưởng tất cả pháp hữu hình như muôn vật, vô hình như tâm niệm đều là giả hợp, duyên nhau mà có, chứ không có một cách chân thật, không trường tồn, để đoạn trừ ngu si, pháp chấp.
- Quán giới phân biệt: (giới phân biệt quán) nghĩa là phân biệt và quán tưởng sự giả hợp của 18 giới: 6 căn, 6 trần, 6 thức để thấy không thật có "ngã, pháp" ngõ hầu diệt trừ ngã chấp, pháp chấp.
- Quán hơi thở: (sổ tức quán) nghĩa là quán tưởng bằng cách chuyên chú đếm hơi thở ra vào, để đổi trị sự tán loạn của tâm thức.
Trong giáo lý đạo Hồi, điều này liên quan đến sự tâp trung hết sức vào việc thờ phụng, lễ bái.
Những tư tưởng tích cực như vậy (Husnuzon) cũng là một khái niệm rất quan trọng trong đạo Hồi. Và cũng vậy với sự hợp nhất, tình yêu và tình huynh đệ giữa những người đồng loại. Nó phù hợp với lập trường của Hồi giáo, như là một tôn giáo mang lại phúc lành và thịnh vượng cho toàn thể nhân loại.
“Con đường Trung đạo” là về sự điều độ, giữa sự nuông chiều và tự hiến; tương tự như khái niệm Wasatiyyah (sự ôn hòa, cân bằng. Tinh thần của sự ôn hòa đã tạo nên đất nước Malaysia hôm nay, là chìa khóa để vượt qua những thách thức phải đối mặt trong khu vực), cũng là nền tảng của giáo lý đạo Hồi và đã được áp dụng trong khái niệm Malaysia.
Trong câu 29 của Surah Al Isara, Thánh Allah nói: “Hãy đừng làm cho bàn tay quý vị bị bóp cổ, hoặc hoàn toàn kéo dài nó và do đó bị đổ lỗi và mất khả năng thanh toán. Đừng để bàn tay của quý vị bị trói vào cổ của quý vị, hoặc kéo dài nó lên đến mức tối đa (như sự tiêu xài), để quý vị trở nên đáng tội lỗi và trong cảnh đói nghèo trầm trọng”.
Tiên tri Muhammad (PBUH) trong Hadith được kể lại bởi Imam Tirmizi, theo báo cáo cho biết: “Ngoài sự khiêm tốn không mang lại gì tốt”.
Ở đây, chúng ta có thể thấy những điểm tương đồng trong các giá trị chính của Phật giáo và giáo lý đạo Hồi:
1. Nguyên tắc công lý: Niềm tin rằng mỗi linh hồn đều có trách nhiệm sau này. Hồi giáo tin rằng các tội lỗi sẽ bị trừng phạt trong tương lai, tương tự như quy luật tự nhiên của nhân - quả, nghiệp báo luân hồi trong giáo lý Phật đà.
2. Niềm tin vào nghĩa vụ đạo đức căn bản và từ bi, yêu thương đối với tất cả chúng sinh.
3. Niềm tin vào nhu cầu tham gia vào việc thực hành tâm linh và hiệu quả của nó thông qua các phương tiện tu tập cầu nguyện, tụng kinh, trì chú, thiền định hay quán tưởng.
4. Niềm tin vào sự cần thiết phải tách mình ra khỏi thế giới tham vọng và theo đuổi dục vọng.
Hy vọng rằng người Malaysia quan tâm đến những giá trị tương tự của hai tôn giáo lớn của quốc gia Malaysia và tuân thủ bốn nền tảng chính – sự khoan dung; tôn trọng lẫn nhau; sự nhạy cảm và tin tưởng lẫn nhau - như là điểm tựa trong nối kết đoàn của tất cả chúng ta. Với điều này, chúng ta hãy cổ vũ kiến thức và hiểu biết, để hóa giải những thành kiến chủng tộc trong hy vọng của chúng ta để xây dựng một Malaysia hài hòa hơn.
Johari Yap
Chủ tịch Hiệp hội Hồi giáo Trung Quốc Malaysia (MACMA), Chi nhánh Kelantan
Vân Tuyền (Nguồn: Malaysian Digest)
Nguồn: phatgiao.org.vn
Chủ tịch Hiệp hội Hồi giáo Trung Quốc Malaysia (MACMA), Chi nhánh Kelantan
Vân Tuyền (Nguồn: Malaysian Digest)
Nguồn: phatgiao.org.vn
Vui lòng gõ tiếng việt có dấu