Chủ Nhật 24 Tháng Mười Hai 2017 - 03:02:35 CH
Phật giáo Lào với việc phát triển và bảo vệ môi trường
(PGVN) Một cuộc cách mạng thầm lặng đang từng bước vững chắc hình thành ở vùng nông thôn Lào, nơi mà Chư tôn đức Tăng già Phật giáo du hóa đến các các làng mạc, quan tâm và ý thức về môi trường, đang giảng dạy cho người dân về đạo đức và thiền định để tiên phong phong trào vận động người dân phát triển kinh tế cộng đồng, và sống hài hòa với thiên nhiên hơn là phá hủy tự nhiên dưới danh nghĩa phát triển.
Phật giáo và phát triển
Qua nhiều thế kỷ, Phật giáo có mối liên quan mật thiết với sự phát triển ở Lào. Vào khoảng thế kỷ thứ VIII, những người Môn đầu tiên di cư xuống vùng Tây Lào đã truyền bá Phật giáo cho những cư dân tại đây. Những người Môn này đã mang theo rất nhiều kinh Phật, tượng Phật và những tu sĩ am hiểu Phật giáo từ Sri Lanka đến truyền bá Phật pháp. Từ đó họ truyền đi các ngả và phát triển rộng khắp đến các vùng phía Tây của Lào.
Đến thế kỷ XIII khi tộc người Lào Thay chinh phục xong toàn bộ phần đất Bắc Lào rộng lớn họ đã tiếp thu đạo Phật theo phái Tiểu thừa và phát triển rộng khắp cả vùng Bắc và Trung Lào. Thời gian này, Phật giáo Lào có quan hệ mật thiết với Phật giáo Srilanka. Trong khi đó, từ phía Nam, Phật giáo Lào cũng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Khmer. Dưới thời của đế chế Ăngkor, thống trị từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ XIII, Phật giáo Đại thừa đã được truyền bá vào Lào. Thế kỷ XIV khi vua Fangum Maharaja (1316 - 1373) thống nhất toàn bộ lãnh thổ nước Lào, ông đã tiếp thu Phật giáo Tiểu thừa từ Campuchia và phát triển trên khắp đất nước Lào.
Hiện nay Phật giáo tại Lào tồn tại song song hai hệ phái Phật giáo Đại thừa và Phật giáo Tiểu thừa, trong đó hệ phái Phật giáo Tiểu thừa chiếm đa số. Theo con số thống kê, hiện nay ở Lào có hơn 20.000 tăng ni, khoảng 6.300 cơ sở tự viện Phật giáo. Chư tăng và nữ tu của Phật giáo Lào sinh hoạt trong một tổ chức chung là Hội Liên minh Phật giáo Lào với 04 ủy ban là Ủy ban quản lý đạo Phật và Tăng sĩ, Ủy ban Phổ biến nhân đạo, Ủy ban Giáo dục và Ủy ban Quản lý cơ sở tự viện Phật giáo. Hệ thống từ trung ương đến địa phương theo bốn cấp là: Trung ương, tỉnh (thành phố), huyện và bản.
Do Phật giáo tại Lào đa số theo hệ phái Tiểu thừa nên số lượng Tăng sĩ chiếm đa số (chỉ có hơn 400 vị nữ tu trong tổng số hơn 20.000 vị). Để tạo điều kiện cho giới nữ được gần gũi Phật pháp. Hội Phật giáo Lào cho phép người nữ được tu theo lối bạch y (áo trắng). Suốt đời họ chỉ được thụ “Bát quan trai giới” (tám giới-tu tập hạnh xuất gia), mặc y phục trắng và ít khi xuất hiện trước đám đông.
Từ khi đạo Phật du nhập và phát triển, nhiều cơ sở tự viện Phật giáo tại Lào đã đóng một vai trò thiết yếu như các trung tâm giáo dục (các trường học, chùa) và những vị Tăng sĩ Phật giáo đã tiếp tục đóng vai trò giáo dục trong xã hội cho đến tận ngày nay.
Ngoài ra, Chư tôn đức Tăng già Phật giáo Lào đã có nhiều cống hiến quý báu cho quá trình bảo vệ Tổ quốc, tuyên bố độc lập chủ quyền của Lào từ thực dân Pháp xâm lược cũng như thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Chư tôn đức Tăng già Phật giáo Lào đã cổ vũ tinh thần và thúc đẩy người dân tham gia đấu tranh cho độc lập tự do của Lào.
Sau khi thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào vào ngày 02/12/1975, sau khi kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương, vai trò của Chư tôn đức Tăng già Phật giáo Lào đối với sự phát triển có dấu hiệu hạn chế. Tuy nhiên, các giá trị Phật giáo vẫn còn duy trì, gắn bó trong phong cách sống, truyền thống và văn hóa Lào. Chư tôn đức Tăng già Phật giáo Lào vẫn tiếp tục giữ vai trò trong sự nghiệp giáo dục của mình với phương châm “Duy tuệ thị nghiệp”.
Chư tôn đức Tăng già Phật giáo Lào ý thức được vai trò của mình, các ngài khép kín trong các chốn thiền môn để nghiên cứu và thực hành Chính pháp Phật đà, nhận lời thỉnh cầu của người dân để hiện diện trong các hoạt động văn hóa tín ngưỡng Phật giáo, để cùng chia sẻ những nỗi khổ niềm đau, an ủi tinh thần; và hoan hỷ đón nhận “Tứ sự cúng dường” có nghĩa là BỐN thứ cần thiết cho đời sống của Tăng sĩ (Tỳ kheo); y áo, vật thực, thuốc men và liêu cốc.
Vai trò cộng đồng này có tác động tâm lý đối với suy nghĩ của người dân cũng như khuyến khích họ theo đuổi, học hỏi giáo lý Phật đà và thực tiễn trong cuộc sống hằng ngày qua các thực nghiệm yêu thương, bác ái, chánh niệm - những giá trị đã thúc đẩy sự hòa hợp và hòa bình cho xã hội.
Tiếp tục nghĩ về vai trò của Tăng sĩ Phật giáo
Tuy nhiên, nếu chỉ có vai trò của Chư tôn đức Tăng già thì không thể đáp ứng được những thay đổi nhanh chóng và hoàn cảnh xã hội đã tác động đến tâm trí của người dân cũng như sự hạnh phúc của họ. Do đó, Chư tôn đức Tăng già Phật giáo Lào phải tự nghĩ lại về trách nhiệm của mình. Quý ngài nhận ra rằng, trách nhiệm của quý ngài là phải can dự vào quá trình phát triển để giúp người dân Lào vượt qua những khốn khó, những nỗi khổ niềm đau của họ. Theo quan điểm của vị tăng sĩ Phật giáo, những vấn đề xã hội tác động vào sự hạnh phúc hay khổ đau của người dân đều có thể xem là “Khổ”.
Sự xuống cấp của môi trường là một lý do của sự “Khổ” này, và Chư tôn đức Tăng già, những người dân làng đã đồng ý rằng họ phải viện đến rừng thiêng - chốn cư ngụ linh thiêng của lịch đại tổ tiên mà người dân làng gọi là “Don Hor” - như một nơi để bảo vệ và bảo tồn.
Do thực tế có niềm tin của người dân làng vào đạo Phật cùng với lịch đại tiên linh tổ tiên của họ, Chư tôn đức Tăng già và những người dân bắt đầu hoạt động bằng cách đàm phán các nhu cầu và mục đích của họ với lịch đại tiên linh tổ tiên hay “Pu Ta Yaphaw” thông qua những người đồng cốt “jum ban” hay “nang thiem”. Những người này đóng một vai trò tâm linh quan trọng trong làng khi kết nối với “Pu Ta Yaphaw”.
Một “jum ban” của làng giải thích: “Chư tôn đức Tăng già và người dân đến gặp và đề nghị tôi kết nối với “Pu Ta Yaphaw” để hỏi ý kiến Ngài về việc họ sử dụng khu vực này “Don Hor” - cho các hoạt động tái trồng rừng cũng như biến nó trở thành một nơi được bảo tồn, bảo vệ. “Pu Ta” đã cho phép họ trồng cây ở bất cứ nơi nào họ muốn. Trong ngày phân định ranh giới, Pu Ta thông qua và chiếm hữu cơ thể tôi rồi chỉ cho Chư tôn đức Tăng già, dân làng nơi nào làm chỗ định giới”.
Nghi thức thụ phong
Đây là cách kết hợp giữa môi trường truyền thống và môi trường hiện đại kết hợp với nhau. Rất nhanh sau khi có được sự đồng thuận từ Pu Ta, họ bắt đầu phân định ranh giới và tổ chức một buổi lễ thụ phong để xác nhận khu vực đất trồng rừng theo nghi thức Phật giáo để bảo vệ rừng trong khu vực này.
Thượng tọa Phra Phithak nói: “Lý do tại sao chúng tôi phải bảo vệ khu đất và rừng chính là lòng tham của con người. Họ không quan tâm đến tài sản công cộng hay cá nhân; họ sẵn sàng chiếm dụng nếu họ thấy có lợi. Sáng kiến này sẽ giúp bảo vệ những phân vùng, cây cối và động vật được bảo vệ trong khu vực khỏi bị xâm lấn, chặt phá và săn bắn”.
Thượng tọa Phra Phithak nói thêm rằng: “Tự nhiên được nối kết với sự hạnh phúc của người dân. Nếu chúng ta nhận thức được điều này thì nó sẽ trở thành nguồn thực phẩm mà chúng ta có thể thu thập quanh năm, tạo ra oxy và làm sạch không khí”.
Điều này theo thế giới quan Phật giáo tức là mọi chúng sinh trên hành tinh đều có mối liên hệ với nhau: con người là một phần của tự nhiên, sống nhờ tự nhiên và tồn tại được bởi tự nhiên.
Về Tổ chức Hữu nghị Phật giáo Lào (LBFO) có 5 phần:
1. Phát triển tinh thần và thực tiễn cho sự tham gia của xã hội: Hỗ trợ và thúc đẩy phát triển tinh thần và thực hành, thông qua đào tạo và mở rộng không gian để tiếp tục và thực hành việc tu học.
2. Phát triển thanh thiếu niên phật tử: Xây dựng năng lực của thanh thiếu niên phật tử, thông qua việc đào tạo và thực hành, để trở thành những nhà lãnh đạo “Đạo đức mẫu mực” cho thanh thiếu niên trong các trường học.
3. Phát triển bền vững dựa trên niềm tin tôn giáo: Xã hội, văn hóa và tinh thần của các cộng đồng và trường học được cải thiện, cải thiện thông qua các dự án nhỏ do các cựu sinh viên và các nhà hoạt động tôn giáo.
4. Phát triển năng lực tổ chức cho Lào dựa trên niềm tin tôn giáo: Tổ chức dựa trên niềm tin tôn giáo có thể nâng cao năng lực của họ, và thúc đẩy xã hội, văn hóa, tinh thần và đạo đức của cộng đồng người dân Lào, thông qua học tập và tu hành Phật giáo.
5. Truyền thông và mạng lưới giữa các tổ chức tôn giáo (FBO): Mạng lưới hợp tác phát triển cộng đồng bền vững ở cấp quốc gia và cấp tỉnh, cấp độ làng xã hình thành và tăng cường đến đảm bảo các hành động thay đổi trong hài hòa.
Các đề xuất mục tiêu tổng thể dự án này là đạt được các tổng hạnh phúc của cộng đồng người dân Lào, do mở rộng và làm sâu sắc thêm hành động hợp tác dựa trên niềm tin tôn giáo, các tác nhân và các tổ chức xã hội dân sự tham gia tăng cường khả năng thích ứng về tính kinh tế và tính bền vững của sinh thái, sự sống còn của xã hội và văn hóa gia đình và cộng đồng.
Các khởi động chiến lược được mở rộng và sâu sắc sự hợp tác dựa trên niềm tin tôn giáo và các tác nhân và các tổ chức xã hội dân sự để xây dựng tự chủ, xây dựng các mô hình phục hồi rừng có hiệu quả kinh tế (economically feasible), xã hội, văn hóa và sinh thái cộng đồng bền vững, hỗ trợ giáo dục toàn diện để chống lại các tác động tiêu cực không ngừng của tăng trưởng kinh tế, và nạn khai thác dễ bị tổn thương của tài nguyên đối với nhóm dân cư của Lào, đặc biệt là người nghèo. Các cộng đồng nông thôn.
Các bên tham gia chính là Tăng đoàn Phật giáo Lào, cựu sinh viên (GLT-L) và các tổ chức xã hội dân sự Lào cùng chia sẻ tầm nhìn và sứ mệnh có giá trị dựa trên bền vững, sự phát triển của con người và cộng đồng. “Dự án Phật giáo vì sự phát triển” (BDP) người đứng đầu dự án và đối tác. Các đối tác khác bao gồm Trung tâm Đào tạo Tham gia Phát triển (PADETC) và SEM-Thai-land. SEM-Thai-land đã cung cấp cố vấn và tư vấn hỗ trợ nếu cần. SEM-Thai-land cũng tiếp tục tạo điều kiện cho mối liên kết giữa “Dự án Phật giáo vì sự phát triển” (BDP) và các bên tham gia dự án vào các mạng lưới dựa trên niềm tin tôn giáo và các mạng lưới phát triển khác trong khu vực và hơn thế nữa, để tăng cường đối thoại và học tập.
Các dự án bao gồm của 7 thành phần: 1. Tinh thần phát triển và thực hiện tham gia của xã hội; 2. Phát triển thanh thiếu niên phật tử; 3. Sự phát triển bền vững của các tổ chức dựa trên niềm tin tôn giáo; 4. Phát triển năng lực cho các tổ chức tôn giáo; 5. Truyền thông và mạng lưới giữa các tổ chức tôn giáo (FBO); 6. Theo dõi và đánh giá; 7. Hỗ trợ phát triển tổ chức và hoạt động.
Cách tiếp cận chiến lược cho dự án này là nhấn mạnh đến nhận thức tâm linh, sự tăng trưởng bên trong và sự tham gia của mạng lưới giữa các tổ chức Tôn giáo (FBO) và thanh thiếu niên, tăng cường các khía cạnh phát triển năng lực của dự án cho tất cả các bên liên quan (các tổ chức tôn giáo và các tổ chức xã hội dân sự) nhằm tăng cường tác động, và hỗ trợ học tập về thực tiễn cá nhân và tập thể trong tổ chức.
Các thành phần thực hiện của các dự án sẽ được hỗ trợ cộng đồng, trường học và phát triển dựa vào các cơ sở tự viện Phật giáo, nơi được đến dùng ngoài trời sẽ được chuyển giao thông qua cải thiện sinh kế, học tập chất lượng, nâng cao tinh thần và cá nhân thực hành một phần của tất cả các liên quan.
Các dự án này sẽ do các cựu sinh viên và các tình nguyện viên được bắt đầu đào tạo, và các mạng lưới của họ thông qua hợp tác, chia sẻ học tập, kinh nghiệm và kiến thức giữa tất cả các chuyên gia trong các dự án khác nhau.
Tại làng Ban Beungsanthueng, tại huyện Nongbok thuộc tỉnh Khammouane, cách thủ đô Viêng Chăn khoảng 400km về phía nam, Chư tôn đức Tăng già đã giáo hóa cho dân làng về “Giới Hạnh Phật giáo”, cách để sống với đầy đủ niềm tự tin, đức tự chủ (Chánh tín, Chánh kiến), và việc bảo vệ môi trường. Chư tôn đức Tăng già diễn giải cho dân làng hiểu mối liên hệ giữa con người và thiên nhiên cũng như tầm nhìn quan trọng của nó đối với sinh kế và sự hạnh phúc của họ.
Thượng tọa Phra Phithak Somphong, ở một ngôi chùa địa phương chia sẻ rằng: “Người dân quy tụ về đây để tu tập thiền định, ôn lại Ngũ giới đã thọ và giáo lý Bát Chính đạo, là quá trình chuẩn bị tâm lý cho họ trước khi phát động bất cứ hoạt động gì... để thức tỉnh họ, giúp họ nhận ra sự tác động của những hành động thực tiễn của họ đối với môi trường cũng như những ảnh hưởng của nó đối với đời sống hằng ngày, sự an lạc hạnh phúc của họ”.
Các tăng ni đang tổ chức một khóa đào tạo “Tinh thần phật tử tình nguyện” tại Wat Nakhoun Noi, huyện Nasaythong, Viên Chăn.
Thượng tọa Phra Phithak, một trong những vị Tăng sĩ được đào tạo bởi “Dự án Phật giáo vì sự phát triển” (BDP) của Tổ chức Hữu nghị Phật giáo Lào (LBFO), nhằm mục đích khuyến khích công tác phát triển cư dân nông thôn. Thượng tọa Phra Phithak đã bắt đầu công việc sau hoàn thành khóa đào tạo năm 2013 tại Viêng Chăn, và Thượng tọa đã mời người dân làng đến để học giáo lý Phật Đà, và tu tập thiền định cũng như “Bố tát” mỗi nửa tháng (theo giới luật nhà Phật, trước khi tụng giới phải qua việc tự kiểm thảo mình trong nửa tháng qua có vi phạm giới không. Vị Chủ tọa lễ Bố tát hỏi Tăng chúng: "Trong nửa tháng qua, ai có phạm giới phải đứng ra tự bạch và sám hối với chúng?". Hỏi như vậy ba lần, nếu cả chúng im lặng thì tuyên bố: "Tất cả giữ giới trong sạch", rồi mới bắt đầu tụng giới). Thượng tọa cố gắng đậm nét đạo đức Phật giáo ngấm vào tim não của mỗi người dân, trong đó có trẻ em và thanh thiếu niên.
Thượng tọa Phra Phithak nhấn mạnh rằng việc tu tập này theo phong cách giảng dạy hay đào tạo của đức Phật (Buddha witheenaikarnsone).
Trong khi đó, Thượng tọa Phra Phithak cũng đã tổ chức một nhóm “Tinh thần phật tử tình nguyện vì cộng đồng”. Hoạt động của nhóm tình nguyện viên gồm làm vệ sinh đường xá thôn xóm, tái chế phân bón hoặc phân bón hữu cơ cho hoạt động nông nghiệp, thí điểm nuôi trồng hữu cơ, tái trồng rừng, bảo vệ rừng và bảo tồn sinh thái.
Thượng tọa Phra Phithak Somphong, ở một ngôi chùa địa phương chia sẻ rằng: “Người dân quy tụ về đây để tu tập thiền định, ôn lại Ngũ giới đã thọ và giáo lý Bát Chính đạo, là quá trình chuẩn bị tâm lý cho họ trước khi phát động bất cứ hoạt động gì... để thức tỉnh họ, giúp họ nhận ra sự tác động của những hành động thực tiễn của họ đối với môi trường cũng như những ảnh hưởng của nó đối với đời sống hằng ngày, sự an lạc hạnh phúc của họ”.
Các tăng ni đang tổ chức một khóa đào tạo “Tinh thần phật tử tình nguyện” tại Wat Nakhoun Noi, huyện Nasaythong, Viên Chăn.
Thượng tọa Phra Phithak, một trong những vị Tăng sĩ được đào tạo bởi “Dự án Phật giáo vì sự phát triển” (BDP) của Tổ chức Hữu nghị Phật giáo Lào (LBFO), nhằm mục đích khuyến khích công tác phát triển cư dân nông thôn. Thượng tọa Phra Phithak đã bắt đầu công việc sau hoàn thành khóa đào tạo năm 2013 tại Viêng Chăn, và Thượng tọa đã mời người dân làng đến để học giáo lý Phật Đà, và tu tập thiền định cũng như “Bố tát” mỗi nửa tháng (theo giới luật nhà Phật, trước khi tụng giới phải qua việc tự kiểm thảo mình trong nửa tháng qua có vi phạm giới không. Vị Chủ tọa lễ Bố tát hỏi Tăng chúng: "Trong nửa tháng qua, ai có phạm giới phải đứng ra tự bạch và sám hối với chúng?". Hỏi như vậy ba lần, nếu cả chúng im lặng thì tuyên bố: "Tất cả giữ giới trong sạch", rồi mới bắt đầu tụng giới). Thượng tọa cố gắng đậm nét đạo đức Phật giáo ngấm vào tim não của mỗi người dân, trong đó có trẻ em và thanh thiếu niên.
Thượng tọa Phra Phithak nhấn mạnh rằng việc tu tập này theo phong cách giảng dạy hay đào tạo của đức Phật (Buddha witheenaikarnsone).
Trong khi đó, Thượng tọa Phra Phithak cũng đã tổ chức một nhóm “Tinh thần phật tử tình nguyện vì cộng đồng”. Hoạt động của nhóm tình nguyện viên gồm làm vệ sinh đường xá thôn xóm, tái chế phân bón hoặc phân bón hữu cơ cho hoạt động nông nghiệp, thí điểm nuôi trồng hữu cơ, tái trồng rừng, bảo vệ rừng và bảo tồn sinh thái.
Phật giáo và phát triển
Qua nhiều thế kỷ, Phật giáo có mối liên quan mật thiết với sự phát triển ở Lào. Vào khoảng thế kỷ thứ VIII, những người Môn đầu tiên di cư xuống vùng Tây Lào đã truyền bá Phật giáo cho những cư dân tại đây. Những người Môn này đã mang theo rất nhiều kinh Phật, tượng Phật và những tu sĩ am hiểu Phật giáo từ Sri Lanka đến truyền bá Phật pháp. Từ đó họ truyền đi các ngả và phát triển rộng khắp đến các vùng phía Tây của Lào.
Đến thế kỷ XIII khi tộc người Lào Thay chinh phục xong toàn bộ phần đất Bắc Lào rộng lớn họ đã tiếp thu đạo Phật theo phái Tiểu thừa và phát triển rộng khắp cả vùng Bắc và Trung Lào. Thời gian này, Phật giáo Lào có quan hệ mật thiết với Phật giáo Srilanka. Trong khi đó, từ phía Nam, Phật giáo Lào cũng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Khmer. Dưới thời của đế chế Ăngkor, thống trị từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ XIII, Phật giáo Đại thừa đã được truyền bá vào Lào. Thế kỷ XIV khi vua Fangum Maharaja (1316 - 1373) thống nhất toàn bộ lãnh thổ nước Lào, ông đã tiếp thu Phật giáo Tiểu thừa từ Campuchia và phát triển trên khắp đất nước Lào.
Hiện nay Phật giáo tại Lào tồn tại song song hai hệ phái Phật giáo Đại thừa và Phật giáo Tiểu thừa, trong đó hệ phái Phật giáo Tiểu thừa chiếm đa số. Theo con số thống kê, hiện nay ở Lào có hơn 20.000 tăng ni, khoảng 6.300 cơ sở tự viện Phật giáo. Chư tăng và nữ tu của Phật giáo Lào sinh hoạt trong một tổ chức chung là Hội Liên minh Phật giáo Lào với 04 ủy ban là Ủy ban quản lý đạo Phật và Tăng sĩ, Ủy ban Phổ biến nhân đạo, Ủy ban Giáo dục và Ủy ban Quản lý cơ sở tự viện Phật giáo. Hệ thống từ trung ương đến địa phương theo bốn cấp là: Trung ương, tỉnh (thành phố), huyện và bản.
Do Phật giáo tại Lào đa số theo hệ phái Tiểu thừa nên số lượng Tăng sĩ chiếm đa số (chỉ có hơn 400 vị nữ tu trong tổng số hơn 20.000 vị). Để tạo điều kiện cho giới nữ được gần gũi Phật pháp. Hội Phật giáo Lào cho phép người nữ được tu theo lối bạch y (áo trắng). Suốt đời họ chỉ được thụ “Bát quan trai giới” (tám giới-tu tập hạnh xuất gia), mặc y phục trắng và ít khi xuất hiện trước đám đông.
Từ khi đạo Phật du nhập và phát triển, nhiều cơ sở tự viện Phật giáo tại Lào đã đóng một vai trò thiết yếu như các trung tâm giáo dục (các trường học, chùa) và những vị Tăng sĩ Phật giáo đã tiếp tục đóng vai trò giáo dục trong xã hội cho đến tận ngày nay.
Ngoài ra, Chư tôn đức Tăng già Phật giáo Lào đã có nhiều cống hiến quý báu cho quá trình bảo vệ Tổ quốc, tuyên bố độc lập chủ quyền của Lào từ thực dân Pháp xâm lược cũng như thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Chư tôn đức Tăng già Phật giáo Lào đã cổ vũ tinh thần và thúc đẩy người dân tham gia đấu tranh cho độc lập tự do của Lào.
Sau khi thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào vào ngày 02/12/1975, sau khi kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương, vai trò của Chư tôn đức Tăng già Phật giáo Lào đối với sự phát triển có dấu hiệu hạn chế. Tuy nhiên, các giá trị Phật giáo vẫn còn duy trì, gắn bó trong phong cách sống, truyền thống và văn hóa Lào. Chư tôn đức Tăng già Phật giáo Lào vẫn tiếp tục giữ vai trò trong sự nghiệp giáo dục của mình với phương châm “Duy tuệ thị nghiệp”.
Chư tôn đức Tăng già Phật giáo Lào ý thức được vai trò của mình, các ngài khép kín trong các chốn thiền môn để nghiên cứu và thực hành Chính pháp Phật đà, nhận lời thỉnh cầu của người dân để hiện diện trong các hoạt động văn hóa tín ngưỡng Phật giáo, để cùng chia sẻ những nỗi khổ niềm đau, an ủi tinh thần; và hoan hỷ đón nhận “Tứ sự cúng dường” có nghĩa là BỐN thứ cần thiết cho đời sống của Tăng sĩ (Tỳ kheo); y áo, vật thực, thuốc men và liêu cốc.
Vai trò cộng đồng này có tác động tâm lý đối với suy nghĩ của người dân cũng như khuyến khích họ theo đuổi, học hỏi giáo lý Phật đà và thực tiễn trong cuộc sống hằng ngày qua các thực nghiệm yêu thương, bác ái, chánh niệm - những giá trị đã thúc đẩy sự hòa hợp và hòa bình cho xã hội.
Tiếp tục nghĩ về vai trò của Tăng sĩ Phật giáo
Tuy nhiên, nếu chỉ có vai trò của Chư tôn đức Tăng già thì không thể đáp ứng được những thay đổi nhanh chóng và hoàn cảnh xã hội đã tác động đến tâm trí của người dân cũng như sự hạnh phúc của họ. Do đó, Chư tôn đức Tăng già Phật giáo Lào phải tự nghĩ lại về trách nhiệm của mình. Quý ngài nhận ra rằng, trách nhiệm của quý ngài là phải can dự vào quá trình phát triển để giúp người dân Lào vượt qua những khốn khó, những nỗi khổ niềm đau của họ. Theo quan điểm của vị tăng sĩ Phật giáo, những vấn đề xã hội tác động vào sự hạnh phúc hay khổ đau của người dân đều có thể xem là “Khổ”.
Sự xuống cấp của môi trường là một lý do của sự “Khổ” này, và Chư tôn đức Tăng già, những người dân làng đã đồng ý rằng họ phải viện đến rừng thiêng - chốn cư ngụ linh thiêng của lịch đại tổ tiên mà người dân làng gọi là “Don Hor” - như một nơi để bảo vệ và bảo tồn.
Do thực tế có niềm tin của người dân làng vào đạo Phật cùng với lịch đại tiên linh tổ tiên của họ, Chư tôn đức Tăng già và những người dân bắt đầu hoạt động bằng cách đàm phán các nhu cầu và mục đích của họ với lịch đại tiên linh tổ tiên hay “Pu Ta Yaphaw” thông qua những người đồng cốt “jum ban” hay “nang thiem”. Những người này đóng một vai trò tâm linh quan trọng trong làng khi kết nối với “Pu Ta Yaphaw”.
Một “jum ban” của làng giải thích: “Chư tôn đức Tăng già và người dân đến gặp và đề nghị tôi kết nối với “Pu Ta Yaphaw” để hỏi ý kiến Ngài về việc họ sử dụng khu vực này “Don Hor” - cho các hoạt động tái trồng rừng cũng như biến nó trở thành một nơi được bảo tồn, bảo vệ. “Pu Ta” đã cho phép họ trồng cây ở bất cứ nơi nào họ muốn. Trong ngày phân định ranh giới, Pu Ta thông qua và chiếm hữu cơ thể tôi rồi chỉ cho Chư tôn đức Tăng già, dân làng nơi nào làm chỗ định giới”.
Nghi thức thụ phong
Đây là cách kết hợp giữa môi trường truyền thống và môi trường hiện đại kết hợp với nhau. Rất nhanh sau khi có được sự đồng thuận từ Pu Ta, họ bắt đầu phân định ranh giới và tổ chức một buổi lễ thụ phong để xác nhận khu vực đất trồng rừng theo nghi thức Phật giáo để bảo vệ rừng trong khu vực này.
Thượng tọa Phra Phithak nói: “Lý do tại sao chúng tôi phải bảo vệ khu đất và rừng chính là lòng tham của con người. Họ không quan tâm đến tài sản công cộng hay cá nhân; họ sẵn sàng chiếm dụng nếu họ thấy có lợi. Sáng kiến này sẽ giúp bảo vệ những phân vùng, cây cối và động vật được bảo vệ trong khu vực khỏi bị xâm lấn, chặt phá và săn bắn”.
Thượng tọa Phra Phithak nói thêm rằng: “Tự nhiên được nối kết với sự hạnh phúc của người dân. Nếu chúng ta nhận thức được điều này thì nó sẽ trở thành nguồn thực phẩm mà chúng ta có thể thu thập quanh năm, tạo ra oxy và làm sạch không khí”.
Điều này theo thế giới quan Phật giáo tức là mọi chúng sinh trên hành tinh đều có mối liên hệ với nhau: con người là một phần của tự nhiên, sống nhờ tự nhiên và tồn tại được bởi tự nhiên.
Về Tổ chức Hữu nghị Phật giáo Lào (LBFO) có 5 phần:
1. Phát triển tinh thần và thực tiễn cho sự tham gia của xã hội: Hỗ trợ và thúc đẩy phát triển tinh thần và thực hành, thông qua đào tạo và mở rộng không gian để tiếp tục và thực hành việc tu học.
2. Phát triển thanh thiếu niên phật tử: Xây dựng năng lực của thanh thiếu niên phật tử, thông qua việc đào tạo và thực hành, để trở thành những nhà lãnh đạo “Đạo đức mẫu mực” cho thanh thiếu niên trong các trường học.
3. Phát triển bền vững dựa trên niềm tin tôn giáo: Xã hội, văn hóa và tinh thần của các cộng đồng và trường học được cải thiện, cải thiện thông qua các dự án nhỏ do các cựu sinh viên và các nhà hoạt động tôn giáo.
4. Phát triển năng lực tổ chức cho Lào dựa trên niềm tin tôn giáo: Tổ chức dựa trên niềm tin tôn giáo có thể nâng cao năng lực của họ, và thúc đẩy xã hội, văn hóa, tinh thần và đạo đức của cộng đồng người dân Lào, thông qua học tập và tu hành Phật giáo.
5. Truyền thông và mạng lưới giữa các tổ chức tôn giáo (FBO): Mạng lưới hợp tác phát triển cộng đồng bền vững ở cấp quốc gia và cấp tỉnh, cấp độ làng xã hình thành và tăng cường đến đảm bảo các hành động thay đổi trong hài hòa.
Các đề xuất mục tiêu tổng thể dự án này là đạt được các tổng hạnh phúc của cộng đồng người dân Lào, do mở rộng và làm sâu sắc thêm hành động hợp tác dựa trên niềm tin tôn giáo, các tác nhân và các tổ chức xã hội dân sự tham gia tăng cường khả năng thích ứng về tính kinh tế và tính bền vững của sinh thái, sự sống còn của xã hội và văn hóa gia đình và cộng đồng.
Các khởi động chiến lược được mở rộng và sâu sắc sự hợp tác dựa trên niềm tin tôn giáo và các tác nhân và các tổ chức xã hội dân sự để xây dựng tự chủ, xây dựng các mô hình phục hồi rừng có hiệu quả kinh tế (economically feasible), xã hội, văn hóa và sinh thái cộng đồng bền vững, hỗ trợ giáo dục toàn diện để chống lại các tác động tiêu cực không ngừng của tăng trưởng kinh tế, và nạn khai thác dễ bị tổn thương của tài nguyên đối với nhóm dân cư của Lào, đặc biệt là người nghèo. Các cộng đồng nông thôn.
Các bên tham gia chính là Tăng đoàn Phật giáo Lào, cựu sinh viên (GLT-L) và các tổ chức xã hội dân sự Lào cùng chia sẻ tầm nhìn và sứ mệnh có giá trị dựa trên bền vững, sự phát triển của con người và cộng đồng. “Dự án Phật giáo vì sự phát triển” (BDP) người đứng đầu dự án và đối tác. Các đối tác khác bao gồm Trung tâm Đào tạo Tham gia Phát triển (PADETC) và SEM-Thai-land. SEM-Thai-land đã cung cấp cố vấn và tư vấn hỗ trợ nếu cần. SEM-Thai-land cũng tiếp tục tạo điều kiện cho mối liên kết giữa “Dự án Phật giáo vì sự phát triển” (BDP) và các bên tham gia dự án vào các mạng lưới dựa trên niềm tin tôn giáo và các mạng lưới phát triển khác trong khu vực và hơn thế nữa, để tăng cường đối thoại và học tập.
Các dự án bao gồm của 7 thành phần: 1. Tinh thần phát triển và thực hiện tham gia của xã hội; 2. Phát triển thanh thiếu niên phật tử; 3. Sự phát triển bền vững của các tổ chức dựa trên niềm tin tôn giáo; 4. Phát triển năng lực cho các tổ chức tôn giáo; 5. Truyền thông và mạng lưới giữa các tổ chức tôn giáo (FBO); 6. Theo dõi và đánh giá; 7. Hỗ trợ phát triển tổ chức và hoạt động.
Cách tiếp cận chiến lược cho dự án này là nhấn mạnh đến nhận thức tâm linh, sự tăng trưởng bên trong và sự tham gia của mạng lưới giữa các tổ chức Tôn giáo (FBO) và thanh thiếu niên, tăng cường các khía cạnh phát triển năng lực của dự án cho tất cả các bên liên quan (các tổ chức tôn giáo và các tổ chức xã hội dân sự) nhằm tăng cường tác động, và hỗ trợ học tập về thực tiễn cá nhân và tập thể trong tổ chức.
Các thành phần thực hiện của các dự án sẽ được hỗ trợ cộng đồng, trường học và phát triển dựa vào các cơ sở tự viện Phật giáo, nơi được đến dùng ngoài trời sẽ được chuyển giao thông qua cải thiện sinh kế, học tập chất lượng, nâng cao tinh thần và cá nhân thực hành một phần của tất cả các liên quan.
Các dự án này sẽ do các cựu sinh viên và các tình nguyện viên được bắt đầu đào tạo, và các mạng lưới của họ thông qua hợp tác, chia sẻ học tập, kinh nghiệm và kiến thức giữa tất cả các chuyên gia trong các dự án khác nhau.
Vân Tuyền (Nguồn: IDN-In Depth News)
Nguồn: phatgiao.org.vn
Nguồn: phatgiao.org.vn
Vui lòng gõ tiếng việt có dấu